Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2015

TUYÊN CÁO






Hiến pháp và Nhân quyền

                                Image result for nhân quyền và hiến pháp

Hiến pháp và Nhân quyền

                            LS Lê Trọng Quát

Hơn ba năm sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, hình ảnh kinh hoàng của những vụ tàn sát hàng triệu sinh mạng trên gần khắp địa cầu đã thôi thúc mọi người phải xác quyết và khẳng định thượng tôn quyền của con người: sống tự do, an toàn, phẩm cách được tôn trọng, sự phát triển và thăng tiến cá nhân được khuyến khích.

Với sự đồng tình tuyệt đối, ngày 10 tháng 12, 1948, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua Bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân quyền. Quyền thiêng liêng của con người đã được thế giới chính thưc công nhận. Và từ đấy, nhân quyền lần lượt hiện diện trong hiến pháp của các quốc gia thành viên trước đấy chưa quan tâm đến nhân quyền. Tuy nhiên, vài ngoại lệ còn tồn tại với 5 chế độ cộng sản còn sót lại. Bất hạnh thay, trong số này có quốc gia Việt Nam dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa (VNXHCN) !

Giữa lúc trong gần hai trăm quốc gia lớn nhỏ, hiến pháp và nhân quyền khắn khít với nhau như hình và bóng thì tại VNXHCN cái gọi là hiến pháp nhất định không chấp nhận nhân quyền, bị xem như khí giới của «  thế lực thù địch ». Đòi hỏi nhân quyền sẽ bị trừng trị, đánh đập. Tranh đấu cho nhân quyền sẽ chắc chắn vào tù . Tách riêng một thiểu số đảng viên cộng sản, 90 triệu người Việt còn lại bị xem là  « thế lực thù địch » và cảm tình viên của thế lực thù địch, được canh chừng cẩn mật.  Mới hai năm trước đây, thừa dịp Nhà Nước cộng sản « cho » dân bày tỏ ý kiến tu chính hiến pháp, dân chúng không mấy tin nhưng vẫn đề nghị một số tu chính nhằm công nhận một số dân quyền và nhân quyến căn bản, họ đã hoàn toàn thất vọng.

Cộng sản còn, dân quyền và nhân quyền thực sự không có chỗ đứng trong hiến pháp. Vì vậy, không có cách nào hơn để dân quyền và rộng hơn quyền thiêng liêng của con người  được công nhận và triệt để tôn trọng, là tranh đấu, tranh đấu cho đến cùng chứ không thể « xin cho ».

Một mai, trong sự thành lập tân chế độ hậu cộng sản, nhân quyền đương nhiên là một mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập hiến đặng hoàn thành một hiến pháp trong đó nhân quyền và dân quyền sẽ được khai triển và ghi khắc như một đảm bảo vững chắc cho các quyền tự do của mọi công dân Việt Nam từ Bắc chí Nam và cho nền dân chủ của nước Việt Nam tương lai, hòa bình, tiến bộ.
Hiến pháp và Nhân quyền sẽ không còn là hai đối thủ như dưới thời VNXHCN.
Hiến pháp và Nhân quyền sẽ quyện lại với nhau thành  nền tảng chính trị của một thời đại mới huy hoàng của dân tộc Việt Nam.

- Hiến pháp và hiến pháp
Mọi quốc gia đều có hiến pháp: một bản văn quan trọng nhất thông thường trình bày đúc kết nền tảng triết lý chính trị của quốc gia, xác định tổ chức các lãnh vực hành pháp, lập pháp, tư pháp qua các định chế  liên hệ, các chính sách quốc gia căn bản về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, các quyền và bổn phận của công dân, các nhân quyền phổ cập, sự điều hợp giữa các cơ cấu quốc gia…

Thế nhưng không phải hiến pháp nào cũng giống nhau giữa các quốc gia. Qua giòng  lịch sử thế giới, chúng ta nhận thấy có hiến pháp của các quốc gia theo chế độ quân chủ chuyên chế, quân chủ lập hiến, chế độ cộng hòa, chế độ  cộng sản với những danh xưng khác nhau ( Cộng Hòa Xã Hội Sô Viết gọi tắt Nga Sô, Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, Dân Chủ Nhân Dân các nước Đông Âu cũ và riêng Cộng sản Việt Nam với hai danh xưng kế tiếp VN Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN ).

Riêng Vương Quốc Anh,  một nước dân chủ kỳ cựu nhất thế giới, đã từ 800 năm nay phát triển những qui tắc có tính cách hiến định và luật hành chánh khởi nguồn từ hiến chương The Magna Carta (1215) mà nhà vua John của Anh quốc buộc phải ký dưới áp lực của một số quí tộc chống lại chính sách của Nhà vua áp đặt sưu thuế nặng nề, hạn chế tự do cá nhân. Hiến chương The Magna Carta ban hành những điều có thể gọi là dân quyền và nhân quyền đầu tiên trong lịch sử Anh quốc. Các luật lệ kế tiếp được nghị viện thông qua tạo thành một thứ  « hiến pháp không thành văn » (constitution non écrite) độc đáo.

Trong lúc ấy, tám thế kỷ sau,  còn có những hiến pháp « thành văn » rõ ràng, được công bố long trọng, ghi chú đầy đủ các điều khoản và nguyên tắc dân chủ, nhân quyền, nhưng lại không được áp dụng hoặc chỉ được áp dụng phần nào.

Nhưng trên tất cả các sự khác biệt, hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa  Việt Nam (CHXHCNVN) năm 2013 đã tự tạo thành một hiện tượng khác thường sánh với non hai trăm nước không cộng sản, khác thường vì:
1.     ngay trong «  Lời nói đầu »  của bản hiến pháp, các nhà lập hiến đã không dè dặt xác quyết : «  …………………………Thể chế hóa Cương Lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ………………….. » nghĩa là biến Cương Lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam thành thể chế chính trị của quốc gia !
2.     tiếp theo là điều 4 quái dị đặt đảng cộng sản trên đầu quốc gia dân tộc : «  Đảng  Cộng  sản Việt Nam – đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng – là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…………………………………………………………………………………………………….. ».

Nhân  quyền và dân quyền không thể và không còn chỗ đứng trong một hiến pháp như vậy,  cưỡng đặt một quốc gia dưới sự lãnh đạo của một đảng phái, lại còn tự nhận lệ thuộc một chủ nghĩa ngọai lai và tệ hại hơn nữa, một chủ nghĩa đã bị đào thải ngay trong hầu hết các nước đã áp dụng nó và phải trả giá đắt. Tổng cọng hơn một trăm triệu sinh linh, theo tổng kết nghiêm chỉnh nhất của các tổ chức độc lập theo dõi tiến trình phát triền của các quốc gia thuộc khối Cộng sản quốc tế kể từ cuộc cách mạng bôn-sê-vít năm 1917 ở nước Nga và lan rộng nhiều vùng trên địa cầu cho đến ngày Đế quốc Nga Sô và các chế độ chư hầu ở Đông Âu sụp đổ.

- Nhân quyền
Trước khi tóm lược lịch sử của nhân quyền từ khi nhiều quốc gia đã thành hình trên địa cầu, thiết tưởng cần nhắc lại rằng nhân quyền không phải là một ân huệ của bất cứ quyền lực nào ban phát cho con người. Trong nhiều hệ thống luật pháp hiện đại, ngay từ khi còn là một bào thai thành hình trong bụng mẹ, nó đã có quyền trong di sản của người thân dành cho nó khi nó chào đời. Như từ ngữ đã rõ ràng, nhân quyền hay quyền của con người, là một quyền tự nhiên, thiết thân với con người. Từ mấy ngàn năm trước, các nhà triết học thời cổ La mã – Hy lạp,  Platon, Marc Aurèle… cũng như các văn bản tôn giáo, văn chương, triết học qua các thời đại đều không nói khác.

Thế nhưng cần phải nhắc lại vì vào thế kỷ thứ 21 này, vẫn có một số rất ít chế độ chính trị, đứng đầu là các chế độ cộng sản còn sót lại sau cơn đại hồng thủy 1989-1991 quét sạch Khối Cộng sản Nga Sô và Đông Âu, các chế độ cộng sản này tiếp tục xem nhân quyền như một đặc quyền của họ mà dân chúng phải « xin cho ». Trước chính sách bạo hành dân chúng mà Việt Nam XHCH là một trường hợp điển hình, có vài quốc gia can thiệp một cách lịch sự nhưng gặp phải hoặc là lời hứa hẹn sẽ xem xét,  hoặc là phản đối và xem sự can thiệp như một hành vi xen lấn vào chủ quyền của quốc  gia, hay kỳ quái hơn nữa bảo rằng « nhân quyền của nước tôi không phải như vậy nên không có gì phải quan tâm ……. » ! Lẽ phải và lương tri không thể nào chấp nhận những luận cứ ngoan cố và vô ý thức như vậy khi quyền của con người đã được công nhận từ nhiều ngàn năm lịch sử, kể từ khi nhiều quốc gia và nhiều nền văn minh đã thành hình trên quả đất.

Thật vậy, năm 539 trước kỷ nguyên Thiên Chúa, Cyrus Đại Đế (Cyrus le Grand) ở Ba –Tư (Perse) đã tạo nên tiền lệ nhân quyền. Sau khi chiếm Babylone, bằng hành động rất ngoạn mục, Nhà vua giải thoát  tất cả người nô lệ và phán rằng tất cả mọi người đều có quyền lựa chọn tôn giáo của mình, một thứ quyền rất quan trọng mà mãi đến bây giờ, hơn hai mươi lăm thế kỷ sau, cộng sản vẫn không thực tình tôn trọng và trên thực tế vẫn xử dụng mọi cách để chèn ép các tôn giáo, cướp đoạt tài sản các giáo hội. Bản mẫu ghi khắc tuyên cáo của Cyrus Đại đế còn được lưu giữ và quốc gia Iran tặng cho Liên Hiệp Quốc năm 1971 và LHQ đã chuyển ngữ ra tất cả các ngôn  ngữ chính thức.

Tuyên cáo của Cyrus Đại Đế đã được công nhận là Tuyên ngôn Nhân Quyền đầu tiên của lịch sử loài người.

Mười tám thế kỷ sau, Hiến chương The Magna Carta 1215 vừa là khuôn mẫu một hiến pháp như đã ghi trên, đồng thời là một tuyên ngôn nhân quyền với sự ban bố những quyền đặc biệt tiến bộ của con người vào thời bấy giờ như quyền của giáo hội (công giáo) sinh hoạt tự do, chính quyền không được can thiệp vào sự sinh hoạt nội bộ của giáo hội, quyền của mọi người dân tự do sở hữu tài sản và di sản và không bị đánh thuế quá nặng, quyền của mọi người được xét xử đúng pháp luật và bình đẵng trước công lý……..Đúng 800 năm sau hiến chương này, con người Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thời có được hưởng những quyền thiết yếu ấy không ?!

Cũng tại Vương quốc Anh, năm 1628, Nghị Viện đã thông qua dưới triều vua Charles Đệ Nhất, một loạt các quyền tự do dân sự làm nền tảng cho sự phát triển nhân quyền mà quan trọng nhất là qui tắc habea corpus được thi hành năm 1679 dưới thời Charles Đệ Nhị.Theo qui tắc quan trọng này, mọi sự giam giữ người phải được phép của vị( thẩm phán để bảo đảm cho quyền tự do cá nhân. Qui tắc habea corpus sẽ được liên tục áp dụng tại nhiều quốc gia cho đến bây giờ với vài chi tiết áp dụng khác nhau mà thôi.
Một hế kỷ sau, nhân quyền lại được thể hiện rõ nét trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 4 tháng 7, 1776 của Hiệp- chủng -quốc Hoa Kỳ và trong hiến pháp 1787 của quốc gia này.

Cuộc cách mạng 1789 của Pháp cũng đề cao nhân quyền  trong bản « Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền », khẳng  định rằng : « Mọi người sinh ra và lớn lên tự do và bình đẳng trước pháp luật » và nhân quyền là những quyền bất khả triệt tiêu (droits imprescriptibles) của con người có giá trị phổ cập trên toàn cầu.

Nhưng bước đột phá cuối cùng mang tính chính thức là bản «  Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền » ( la Déclaration des Droits de l’Homme – The Universal Declaration of Human Rights ) được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chấp nhận ngày 10 tháng 12, 1948. Từ đấy, hai Công ước quốc tế được sọan thảo và chấp thuận, kết hợp với bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền thành Bộ Luật quốc tế Nhân quyền ( Intrnational Bill of Human Rights) :

1.     Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
2.     Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị

Hai công ước này được thông qua năm 1966 và có hiệu lực thi hành năm 1976 sau khi được một số quốc gia chấp nhận và phê chuẩn. Nhiều quốc gia còn tiếp tục phê chuẩn và rất nhiều văn kiện kế tiếp khai triển các công ước trong nhiều lãnh vực từ những quyền tự do cá nhân căn bản cho đến quyền dân tộc tự quyết, quyền lao động, sự cấm chỉ tra tấn. v.v…

Nếu quả thật mục đích của các tác giả đa-quốc gia và đầy thiện chí của Bộ Luật quốc tế nhân quyền đáng kính phục vì lý tưởng tự do, dân chủ, vì sự tôn trọng giá trị siêu việt của con người, vì lòng mong muốn xây dựng một thế giới an lạc hòa bình sau hai cuộc thế chiến gây tang tóc cho một phần nhân loại thì tiếc thay, thực tế lại khá phủ phàng. Một số quốc gia vẫn không áp dụng các quyền tự do căn bản của con người dù đã ký kết vào tất cả ba văn bản ghi trên của Bộ Luật quốc tế Nhân Quyền. Thậm chí có thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền, cơ quan tối cao của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền, lại là quốc gia vi phạm nhân quyền công khai và trắng trợn: trường hợp Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa là một !

Vượt quá các quốc gia, quyền của con người lại đang phải trải qua một thử thách mới do sự mù quáng của một số tín đồ cực đoan của đạo Hồi, một tôn giáo lớn có mặt gần khắp địa cầu. Quyền tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng đang bị đe dọa nghiêm trọng ngay trong lòng các quốc gia Tây phương như vụ tàn sát các ký giả của tờ báo Charlies Hebdo ở Pháp vừa qua và tiếp theo, tại thủ đô Đan Mạch với thiệt hại nhẹ hơn vì hung thủ không  dột nhập được vào hội trường, nơi đang diễn ra một buổi thảo luận về quyền tự do phát biểu, tự do báo chi qua vụ Charlies  Hebdo ở Pháp.

Nhân quyền còn bị vùi đạp man rợ hơn nữa tại vùng ranh giới Irak và Syrie. Một nhóm cực đoan chiếm cứ một vùng ở đây, lợi dụng cuộc chiến chống chính quyền Syrie tại vùng tranh chấp này, đã thành lập một « Quốc gia Hồi giáo Irak- Syrie » ( Islamic State of Irak and Syria) áp dụng những cực hình làm lu mờ những cực hình của thời Trung Cổ, như chặt đầu, thiêu sống nạn nhân mà một số bị chúng kết tội «  tà đạo »  vì không cùng một tôn giáo với chúng.

Thiết tưởng trong những vụ được gọi là khủng bố của hồi giáo cực đoạn đã và đang xẩy ra ở nhiều nơi, đặc biệt ở Trung Đông, Phi Châu, Âu Châu, Úc, Gia nã đại,  phần lớn nguyên do bắt nguồn từ thái độ hận thù của khuynh hướng Hồi giáo cực đoan đối với đạo Do Thái và Thiên Chúa giáo, trở thành đố kỵ và dị ứng với văn minh Tây phương. Vụ quốc gia Israel chiếm cứ  lãnh thổ của Palestine mà đa số dân chúng theo đạo Hồi, kéo dài hơn nữa thế kỷ nay trước sự bất lực của cộng đồng thế giới càng khiến cho tâm lý hận thù thêm nặng nề. Tính mạng của con người, quyền sống tự do, mưu cầu hạnh phúc bị thường xuyên đe dọa. Nhân quyền không còn được coi trọng nữa trong bối cảnh của hận thù tập thể, của cuồng tín mù quáng làm lu mờ lý trí, đánh mất lương tâm và lòng nhân đạo.

- Hiến Pháp và Nhân Quyền
Nếu lịch sử của nhân quyền đang còn bị hoen ố bởi một số chế độ chính trị lỗi thời, lạc hậu đi ngược trào lưu dân chủ tự do của thế giới và bởi sự cuồng tín mù quáng của một số quần chúng trong vài quốc gia kém mở mang thì ngược lại, nhân quyền, nói chung, có một vị trí đáng kể trong hiến pháp của đại đa số quốc gia và ngay cả trong sinh hoạt dân chúng qua  những tổ chức xã hội dân sự.

Trong mọi hiến pháp của các nước tự do dân chủ, hầu hết các chương mục quan trọng đều thể hiện ý niệm nhân quyền, từ nền tảng triết lý chính trị đến các chính sách quốc gia văn hóa, giáo dục, xả hội, dân sinh, kinh tế, chính trị. Tất cả đều phải đồng qui về một mục tiêu: phục vụ người dân, vì có dân mới có quốc gia, Nhà Nước, một nguyên lý đã được đề cao gần 2400 năm trước : « Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh » (Mạnh Tử), chứ không phải đợi đến các chính khách, các luật gia hiến pháp học bây giờ. Và quyền công dân chỉ là quyền của con người, một nhân quyền được kiến trúc trong khuôn khổ một xã hội đã được tổ chức thành một quốc gia.

Sự hiện diện của đầy đủ nhân quyền trong một hiến pháp  chứng tỏ mức độ cao của nền dân chủ của quốc gia ấy. Ngược lại, sự vắng bóng nhân quyền hay sự thiếu sót bảo đảm một cách minh thị nhân quyền trong một hiến pháp tố cáo một chế độ chính trị mờ ám nếu không phải là độc đoán, độc tài.

Các hiến pháp của các quốc gia dân chủ có thể khác nhau về mô hình của thể chế nhưng nội dung về chất lượng dân chủ, tự do, nhân quyền không khác biệt nhau đáng kể. Riêng về Việt Nam Cộng Hòa trước 1975, chúng ta có hai hiến pháp của Đệ Nhất và Đệ nhị Cộng Hòa, 1956 và 1967, đều theo tổng thống chế (régime présidentiel). Dù trong hoàn cảnh bạo loạn và chiến tranh do cộng sản phát động, hai hiến pháp vẫn thể hiện đúng mức dân chủ và nhân quyền. Vài hạn chế vì lý do an ninh và chống Cọng thực ra quá ít so với tình thế lúc bấy giờ.

Nói chung, dù ở trong mô hình nào kể trên, hiến pháp của các nước dân chủ hiện đại cũng dành cho nhân quyền một vị trí hàng đầu thể hiện trong các quyền công dân căn bản bên cạnh những điều khoản khác về thể chế chính trị, các chính sách quốc gia, tổ chức công quyền, sự hoạt động của các định chế quốc gia .v.v…

Mọi đạo luật của cơ quan lập pháp, mọi quyết định của hành pháp như sắc lệnh, nghị định .v.v… có thể bị Viện Bảo Hiến hủy bỏ nếu vi phạm một điều khoản hay ngay cả tinh thần của hiến pháp. Tại Hoa Kỳ, Tối cao Pháp viện Liên bang hành sử thẩm quyền của Viện Bảo Hiến như vừa kể trên, nước Pháp và Việt Nam Cộng Hòa đều có một Viện Bảo Hiến riêng biệt mà tổ chúc gần giống nhau. Một điều khỏan luật lệ vi phạm nhân quyền trái với hiến pháp đều bị xem là vi hiến, phải bị hủy bỏ.

- Nhân quyền và quyền dân tộc tự quyết
Nhân quyền cũng là lẽ sống của một con người. Tôn trọng nhân quyền là nhìn nhận giá trị siêu việt của con người mà không một thế nhân nào, không một quyền bính nào có thể tước đoạt. Nhân quyền không phải là một vật « xin, cho ». Ròng rã bốn mươi năm nay, cuộc tranh đấu đòi lại nhân quyền không lúc nào ngưng nghỉ, chỉ khi yếu, khi mạnh nhưng khí thế mãnh liệt hơn với thời gian. Vì sự sợ hãi cá nhân đã nhường bước cho lòng can đảm tập thể. Vì phần lớn cộng đồng quốc tế đã can thiệp với chính quyền cộng sản.

Nhưng tiếc thay, cộng sản Việt Nam vẫn ngoan cố chối cãi hoặc giải quyết vài trường hợp để khỏi làm mất mặt một vài quốc gia mà chúng mang ơn. Kinh nghiệm ê chề này chắc chắc sẽ kéo dài vô tận. Tiềm lực quốc gia suy yếu giữa lúc hiểm họa ngoại xâm ngày càng gia tăng.

Trước thế nước như vậy, chiến lược tranh đấu cho nhân quyền phải thay đổi và phải lồng vào trong cuộc tranh đấu giành lại quyền tự quyết của dân tộc. Vì sự sống chung nhân quyền với một chế độ độc tài toàn trị là một nghịch lý tuyệt đối. Vì chỉ khi nào dân tộc đã giành lại được quyền tự quyết của mình để thiết lập một thể chế chính trị dân chủ, tự do thực sự thì nhân quyền mới được áp dụng và tôn trọng đúng mức, thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của con người, thể chất và tâm linh.

Paris, tháng 3, 2015
LS Lê Trọng Quát


Thứ Ba, 24 tháng 2, 2015

Thông điệp Dân Tộc Tự Quyết- Ất Mùi 2015


.

Thông điệp Dân Tộc Tự Quyết- Ất Mùi  2015
Trân trọng kính gửi đông bào  ở quê hương và hải ngoại
Đồng bào thân mến,
Thấm thoát đã bốn mươi năm từ ngày bức màn sắt oan nghiệt bao trùm cả đất nước Việt Nam chúng ta sau khi Cọng quân hoàn tất cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, Miền Nam thân yêu của Tổ Quốc

Hiệp định Paris 27 tháng 1, 1973 và Văn bản chung kết  2 tháng 3, 1973 nhằm chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam, tôn trọng các quyền quốc gia căn bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam và đóng góp cùng bảo đảm nền hòa bình ở Đông Dương……..Hiệp Định cũng đồng thời bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam……….Văn bản chung kết ( Acte final ) ngày 2 tháng 3 , 1973 của Hiệp định minh thị  sự cam kết bảo đảm các điều ghi trên đã được mười hai chính phủ ký kết gồm có đại diện của bốn phe tham chiến : Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam), Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ( Cộng sản Bắc Việt), Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN ( Việt Cọng, con đẻ của CSBV) và tám quốc gia : Anh quốc, Pháp, Gia – nả - đại,  Ba lan, Hung-gia –lợi, Nam Dương, Nga –Sô và Trung Cọng, trước sự chứng giám của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc.

Hiệp định vừa được ký kết thì cộng sản đã vi phạm tức thời từ những vụ lấn chiếm đất ở nhiều nơi đến những vụ tấn công qui mô vào các vị trí quân sự và các tỉnh thị của Việt Nam Cộng Hòa. Cuối cùng chúng đã xâm chiếm Miền Nam ngày 30 tháng tư 1975 trước thái độ dững dưng hay bất lực của các quốc gia ký kết Hiệp Định Paris và Liên Hiệp quốc.

Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng chiến đấu đến phút cuối cùng với những tướng lãnh, sĩ quan , binh sĩ trong quân đội cũng như trong  các ngành Cảnh sát, An Ninh tuẩn tiết, có cả trường hợp tuẩn tiết cùng  với gia đình vợ con, chứ nhất định không để rơi vào tay địch. Hành động bi hùng của các liệt sĩ này càng đáng được vinh danh hơn nữa khi sự thật lịch sử đã sáng tỏ là quân lực ta không thể nào một mình, sau khi đồng minh của chúng ta đã rút hết khỏi chiến trường, đương đầu được với quân  thù được cả khối cộng sản quốc tế yểm trợ  mọi mặt.

Quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam và tất cả các quyền căn bản của toàn dân Việt mà Hiệp Định Paris xác định và các quốc gia ký kết bảo đảm thực thi đã bị cưỡng đoạt bởi bạo lực cộng sản. Nhưng bạo lực không thể tiêu hủy luật pháp quốc tế mà thế giới đã dày công xây dựng và tôn trọng để đảm bảo an ninh, hòa bình và trật tự cho nhân loại văn minh ngày nay. Một quốc gia muốn được tồn tại và phát triển điều hòa phải là một quốc gia pháp trị. Một thế giới muốn được hòa bình và phát triển lâu dài cũng phải thượng tôn luật pháp. Một nền luật pháp công minh được xây dựng trên căn bản tôn trọng nghiêm chỉnh dân quyền và nhân quyền trong một quốc gia và tôn trọng tuyệt đối quyền dân tộc tự quyết của một dân tộc trong cộng đồng thế giới. Thiếu sự tôn trọng luật pháp quốc gia và quốc tế, luật rừng sẽ ngự trị như chúng ta đang chứng kiến ngày nay trong một số quốc gia và trên nhiều vùng ở Âu, Á, Phi, Trung Cận Đông.

Nạn nhân của bạo lực cộng sản trong bảy mươi năm nay, dân tộc ta đã phải chịu quá nhiều tang tóc và khổ lụy. Xương đã chất thành núi, máu đã chảy thành sông qua hai cuộc chiến tranh mà cộng sản đã gây nên ( 1945-1954 và 1958-1975) dưới danh nghĩa dối trá chiến đấu cho độc lập tự do. Kỳ  thực, từ ngày Nhật bản đầu hàng Đồng Minh giữa tháng tám 1945, chính phủ Nhật đã trao trả hoàn toàn độc lập cho quốc gia Việt Nam do hoàng đế Bảo Đại thay mặt tiếp nhận. Cũng sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, các đế quốc Tây Phương đã lần lượt  trao trả độc lập cho các nước lệ thuộc cũ ở Á – Phi. Dưới danh hiệu Việt Minh ( Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội), cộng sản đã cướp chính quyền,vua Bảo Đại phải thoái vị. Đến năm 1948, với thỏa ước  Élysées, Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam nhưng cộng sản vẫn tiếp tục đánh phá, luôn luôn nhằm mục đích nhuộm đỏ Việt Nam và  MIên, Lào. Từ tháng 10, 1949, sau khi Mao Trạch Đông bá chủ lục địa Trung Hoa,  Cộng đảng Việt Nam thần phục hoàn toàn Trung Cọng, trở thành một hậu cứ vĩ đại tiếp liệu và huấn luyện, trang bị, biến những nhóm quân ô hợp và yếu kém của cộng sản VN thành một quân đội chính qui đến cấp trung đoàn, đại đoàn, sư đoàn. Hậu quả khốc hại của sự thần phục và nương tựa này đã đưa lần đất nước đến thảm trạng ngày nay : sự lệ thuộc của tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt Nam với cộng sản Trung Hoa trên mọi mặt , giáo điều chủ nghĩa, kinh tế, thương mãi, nhường đất, nhường biển, cho người Trung Hoa khai thác tài nguyên, lập thành những khu vực tự trị ở nhiều nơi có tính cách chiến lược thiết yếu cho nền quốc phòng Việt Nam. Thái độ luồn cúi của bộ trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh trước các nhà chức trách Trung Cọng khuôn rập với các lời tuyên bố của các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam không phải là những cử chỉ và ngôn từ  ngoại giao mà thể hiện rõ ràng sự khuất phục trước lãnh đạo Trung Cọng.

Hội nghị Thành Đô 1990  bị bật mí bởi chính một số tướng lãnh, sĩ quan và đảng viên cộng sản lão thành tạo thành một mối đe dọa lớn lao cho tổ quốc  bởi các nhà lãnh đạo cộng sản đã trả ơn cho Trung Cọng bằng sự chấp thuận biến nước ta thành một đơn vị tự trị của Trung quốc trong cuối thập niên này. Đến nay, đảng và chính phủ cộng sản Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa không công bố nội dung của thỏa hiệp khiến cho toàn dân hết sức lo âu. Một ngàn năm Bắc thuộc vẫn là một ám ảnh cực kỳ đen tối trong đầu óc chúng ta.

Trước tình hình nghiêm trọng của đất nước, tôi thành khẩn kêu gọi đồng bào ở trong nước cũng như ở hải ngoại cùng nhau đứng lên tranh đấu đòi Cộng đảng phải trả lại cho dân tộc quyền tự quyết thiêng liêng để toàn dân xây dựng một chế độ dân chủ, tự do đích thực vì chỉ có một chính quyền do dân bầu ra, sống chết vì dân với những người lãnh đạo tài năng, đức độ sẳn sàng hy sinh cho tổ quốc mới huy động được toàn dân vào công cuộc cứu nước và dựng nước. Chính từ đấy mà nước Việt nam tương lai mới có đủ uy tín và khả năng liên kết với các quốc gia trong vùng Á Châu – Thái Bình Dương đặng cùng nhau bảo vệ an ninh và hòa bình chung trong toàn vùng.

Tôi thành khẩn kêu gọi các nhà lãnh đạo cộng sản trong nước đáp ứng nguyện vọng của toàn dân để hành sử như các nhà lãnh đạo Nga Sô cũ, Gorbachev và Yelsine, tránh cho đất nước đã quá khổ đau, một cuộc xung dột có thể là khốc liệt mà chính quý vị phải chịu hoàn toàn trách nhiệm sau khi Cộng đảng của quí vi đã mang nặng trách nhiệm gây nên trong những thập niên qua . Luật pháp và lịch sử sẽ phán xét nghiêm khắc quí vị.

Đồng hành với quốc dân, quí vị sẽ được quốc dân tri ân. Một trang sử mới sẽ  mở ra với toàn dân đoàn kết thực sự để cứu nước và dựng nước, xóa bỏ hận thù, cầm tay nhau mà tiến lên ca khúc khải hoàn cho Tổ quốc Việt Nam.

Thân ái kính chào đồng bào.
Thành thật kính chào qui  vị.
LS Lê Trọng Quát