Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2015

TUYÊN CÁO






Hiến pháp và Nhân quyền

                                Image result for nhân quyền và hiến pháp

Hiến pháp và Nhân quyền

                            LS Lê Trọng Quát

Hơn ba năm sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, hình ảnh kinh hoàng của những vụ tàn sát hàng triệu sinh mạng trên gần khắp địa cầu đã thôi thúc mọi người phải xác quyết và khẳng định thượng tôn quyền của con người: sống tự do, an toàn, phẩm cách được tôn trọng, sự phát triển và thăng tiến cá nhân được khuyến khích.

Với sự đồng tình tuyệt đối, ngày 10 tháng 12, 1948, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc thông qua Bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân quyền. Quyền thiêng liêng của con người đã được thế giới chính thưc công nhận. Và từ đấy, nhân quyền lần lượt hiện diện trong hiến pháp của các quốc gia thành viên trước đấy chưa quan tâm đến nhân quyền. Tuy nhiên, vài ngoại lệ còn tồn tại với 5 chế độ cộng sản còn sót lại. Bất hạnh thay, trong số này có quốc gia Việt Nam dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa (VNXHCN) !

Giữa lúc trong gần hai trăm quốc gia lớn nhỏ, hiến pháp và nhân quyền khắn khít với nhau như hình và bóng thì tại VNXHCN cái gọi là hiến pháp nhất định không chấp nhận nhân quyền, bị xem như khí giới của «  thế lực thù địch ». Đòi hỏi nhân quyền sẽ bị trừng trị, đánh đập. Tranh đấu cho nhân quyền sẽ chắc chắn vào tù . Tách riêng một thiểu số đảng viên cộng sản, 90 triệu người Việt còn lại bị xem là  « thế lực thù địch » và cảm tình viên của thế lực thù địch, được canh chừng cẩn mật.  Mới hai năm trước đây, thừa dịp Nhà Nước cộng sản « cho » dân bày tỏ ý kiến tu chính hiến pháp, dân chúng không mấy tin nhưng vẫn đề nghị một số tu chính nhằm công nhận một số dân quyền và nhân quyến căn bản, họ đã hoàn toàn thất vọng.

Cộng sản còn, dân quyền và nhân quyền thực sự không có chỗ đứng trong hiến pháp. Vì vậy, không có cách nào hơn để dân quyền và rộng hơn quyền thiêng liêng của con người  được công nhận và triệt để tôn trọng, là tranh đấu, tranh đấu cho đến cùng chứ không thể « xin cho ».

Một mai, trong sự thành lập tân chế độ hậu cộng sản, nhân quyền đương nhiên là một mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập hiến đặng hoàn thành một hiến pháp trong đó nhân quyền và dân quyền sẽ được khai triển và ghi khắc như một đảm bảo vững chắc cho các quyền tự do của mọi công dân Việt Nam từ Bắc chí Nam và cho nền dân chủ của nước Việt Nam tương lai, hòa bình, tiến bộ.
Hiến pháp và Nhân quyền sẽ không còn là hai đối thủ như dưới thời VNXHCN.
Hiến pháp và Nhân quyền sẽ quyện lại với nhau thành  nền tảng chính trị của một thời đại mới huy hoàng của dân tộc Việt Nam.

- Hiến pháp và hiến pháp
Mọi quốc gia đều có hiến pháp: một bản văn quan trọng nhất thông thường trình bày đúc kết nền tảng triết lý chính trị của quốc gia, xác định tổ chức các lãnh vực hành pháp, lập pháp, tư pháp qua các định chế  liên hệ, các chính sách quốc gia căn bản về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, các quyền và bổn phận của công dân, các nhân quyền phổ cập, sự điều hợp giữa các cơ cấu quốc gia…

Thế nhưng không phải hiến pháp nào cũng giống nhau giữa các quốc gia. Qua giòng  lịch sử thế giới, chúng ta nhận thấy có hiến pháp của các quốc gia theo chế độ quân chủ chuyên chế, quân chủ lập hiến, chế độ cộng hòa, chế độ  cộng sản với những danh xưng khác nhau ( Cộng Hòa Xã Hội Sô Viết gọi tắt Nga Sô, Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa, Dân Chủ Nhân Dân các nước Đông Âu cũ và riêng Cộng sản Việt Nam với hai danh xưng kế tiếp VN Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa VN ).

Riêng Vương Quốc Anh,  một nước dân chủ kỳ cựu nhất thế giới, đã từ 800 năm nay phát triển những qui tắc có tính cách hiến định và luật hành chánh khởi nguồn từ hiến chương The Magna Carta (1215) mà nhà vua John của Anh quốc buộc phải ký dưới áp lực của một số quí tộc chống lại chính sách của Nhà vua áp đặt sưu thuế nặng nề, hạn chế tự do cá nhân. Hiến chương The Magna Carta ban hành những điều có thể gọi là dân quyền và nhân quyền đầu tiên trong lịch sử Anh quốc. Các luật lệ kế tiếp được nghị viện thông qua tạo thành một thứ  « hiến pháp không thành văn » (constitution non écrite) độc đáo.

Trong lúc ấy, tám thế kỷ sau,  còn có những hiến pháp « thành văn » rõ ràng, được công bố long trọng, ghi chú đầy đủ các điều khoản và nguyên tắc dân chủ, nhân quyền, nhưng lại không được áp dụng hoặc chỉ được áp dụng phần nào.

Nhưng trên tất cả các sự khác biệt, hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa  Việt Nam (CHXHCNVN) năm 2013 đã tự tạo thành một hiện tượng khác thường sánh với non hai trăm nước không cộng sản, khác thường vì:
1.     ngay trong «  Lời nói đầu »  của bản hiến pháp, các nhà lập hiến đã không dè dặt xác quyết : «  …………………………Thể chế hóa Cương Lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ………………….. » nghĩa là biến Cương Lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam thành thể chế chính trị của quốc gia !
2.     tiếp theo là điều 4 quái dị đặt đảng cộng sản trên đầu quốc gia dân tộc : «  Đảng  Cộng  sản Việt Nam – đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng – là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…………………………………………………………………………………………………….. ».

Nhân  quyền và dân quyền không thể và không còn chỗ đứng trong một hiến pháp như vậy,  cưỡng đặt một quốc gia dưới sự lãnh đạo của một đảng phái, lại còn tự nhận lệ thuộc một chủ nghĩa ngọai lai và tệ hại hơn nữa, một chủ nghĩa đã bị đào thải ngay trong hầu hết các nước đã áp dụng nó và phải trả giá đắt. Tổng cọng hơn một trăm triệu sinh linh, theo tổng kết nghiêm chỉnh nhất của các tổ chức độc lập theo dõi tiến trình phát triền của các quốc gia thuộc khối Cộng sản quốc tế kể từ cuộc cách mạng bôn-sê-vít năm 1917 ở nước Nga và lan rộng nhiều vùng trên địa cầu cho đến ngày Đế quốc Nga Sô và các chế độ chư hầu ở Đông Âu sụp đổ.

- Nhân quyền
Trước khi tóm lược lịch sử của nhân quyền từ khi nhiều quốc gia đã thành hình trên địa cầu, thiết tưởng cần nhắc lại rằng nhân quyền không phải là một ân huệ của bất cứ quyền lực nào ban phát cho con người. Trong nhiều hệ thống luật pháp hiện đại, ngay từ khi còn là một bào thai thành hình trong bụng mẹ, nó đã có quyền trong di sản của người thân dành cho nó khi nó chào đời. Như từ ngữ đã rõ ràng, nhân quyền hay quyền của con người, là một quyền tự nhiên, thiết thân với con người. Từ mấy ngàn năm trước, các nhà triết học thời cổ La mã – Hy lạp,  Platon, Marc Aurèle… cũng như các văn bản tôn giáo, văn chương, triết học qua các thời đại đều không nói khác.

Thế nhưng cần phải nhắc lại vì vào thế kỷ thứ 21 này, vẫn có một số rất ít chế độ chính trị, đứng đầu là các chế độ cộng sản còn sót lại sau cơn đại hồng thủy 1989-1991 quét sạch Khối Cộng sản Nga Sô và Đông Âu, các chế độ cộng sản này tiếp tục xem nhân quyền như một đặc quyền của họ mà dân chúng phải « xin cho ». Trước chính sách bạo hành dân chúng mà Việt Nam XHCH là một trường hợp điển hình, có vài quốc gia can thiệp một cách lịch sự nhưng gặp phải hoặc là lời hứa hẹn sẽ xem xét,  hoặc là phản đối và xem sự can thiệp như một hành vi xen lấn vào chủ quyền của quốc  gia, hay kỳ quái hơn nữa bảo rằng « nhân quyền của nước tôi không phải như vậy nên không có gì phải quan tâm ……. » ! Lẽ phải và lương tri không thể nào chấp nhận những luận cứ ngoan cố và vô ý thức như vậy khi quyền của con người đã được công nhận từ nhiều ngàn năm lịch sử, kể từ khi nhiều quốc gia và nhiều nền văn minh đã thành hình trên quả đất.

Thật vậy, năm 539 trước kỷ nguyên Thiên Chúa, Cyrus Đại Đế (Cyrus le Grand) ở Ba –Tư (Perse) đã tạo nên tiền lệ nhân quyền. Sau khi chiếm Babylone, bằng hành động rất ngoạn mục, Nhà vua giải thoát  tất cả người nô lệ và phán rằng tất cả mọi người đều có quyền lựa chọn tôn giáo của mình, một thứ quyền rất quan trọng mà mãi đến bây giờ, hơn hai mươi lăm thế kỷ sau, cộng sản vẫn không thực tình tôn trọng và trên thực tế vẫn xử dụng mọi cách để chèn ép các tôn giáo, cướp đoạt tài sản các giáo hội. Bản mẫu ghi khắc tuyên cáo của Cyrus Đại đế còn được lưu giữ và quốc gia Iran tặng cho Liên Hiệp Quốc năm 1971 và LHQ đã chuyển ngữ ra tất cả các ngôn  ngữ chính thức.

Tuyên cáo của Cyrus Đại Đế đã được công nhận là Tuyên ngôn Nhân Quyền đầu tiên của lịch sử loài người.

Mười tám thế kỷ sau, Hiến chương The Magna Carta 1215 vừa là khuôn mẫu một hiến pháp như đã ghi trên, đồng thời là một tuyên ngôn nhân quyền với sự ban bố những quyền đặc biệt tiến bộ của con người vào thời bấy giờ như quyền của giáo hội (công giáo) sinh hoạt tự do, chính quyền không được can thiệp vào sự sinh hoạt nội bộ của giáo hội, quyền của mọi người dân tự do sở hữu tài sản và di sản và không bị đánh thuế quá nặng, quyền của mọi người được xét xử đúng pháp luật và bình đẵng trước công lý……..Đúng 800 năm sau hiến chương này, con người Việt Nam dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thời có được hưởng những quyền thiết yếu ấy không ?!

Cũng tại Vương quốc Anh, năm 1628, Nghị Viện đã thông qua dưới triều vua Charles Đệ Nhất, một loạt các quyền tự do dân sự làm nền tảng cho sự phát triển nhân quyền mà quan trọng nhất là qui tắc habea corpus được thi hành năm 1679 dưới thời Charles Đệ Nhị.Theo qui tắc quan trọng này, mọi sự giam giữ người phải được phép của vị( thẩm phán để bảo đảm cho quyền tự do cá nhân. Qui tắc habea corpus sẽ được liên tục áp dụng tại nhiều quốc gia cho đến bây giờ với vài chi tiết áp dụng khác nhau mà thôi.
Một hế kỷ sau, nhân quyền lại được thể hiện rõ nét trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 4 tháng 7, 1776 của Hiệp- chủng -quốc Hoa Kỳ và trong hiến pháp 1787 của quốc gia này.

Cuộc cách mạng 1789 của Pháp cũng đề cao nhân quyền  trong bản « Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền », khẳng  định rằng : « Mọi người sinh ra và lớn lên tự do và bình đẳng trước pháp luật » và nhân quyền là những quyền bất khả triệt tiêu (droits imprescriptibles) của con người có giá trị phổ cập trên toàn cầu.

Nhưng bước đột phá cuối cùng mang tính chính thức là bản «  Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền » ( la Déclaration des Droits de l’Homme – The Universal Declaration of Human Rights ) được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc chấp nhận ngày 10 tháng 12, 1948. Từ đấy, hai Công ước quốc tế được sọan thảo và chấp thuận, kết hợp với bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền thành Bộ Luật quốc tế Nhân quyền ( Intrnational Bill of Human Rights) :

1.     Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
2.     Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị

Hai công ước này được thông qua năm 1966 và có hiệu lực thi hành năm 1976 sau khi được một số quốc gia chấp nhận và phê chuẩn. Nhiều quốc gia còn tiếp tục phê chuẩn và rất nhiều văn kiện kế tiếp khai triển các công ước trong nhiều lãnh vực từ những quyền tự do cá nhân căn bản cho đến quyền dân tộc tự quyết, quyền lao động, sự cấm chỉ tra tấn. v.v…

Nếu quả thật mục đích của các tác giả đa-quốc gia và đầy thiện chí của Bộ Luật quốc tế nhân quyền đáng kính phục vì lý tưởng tự do, dân chủ, vì sự tôn trọng giá trị siêu việt của con người, vì lòng mong muốn xây dựng một thế giới an lạc hòa bình sau hai cuộc thế chiến gây tang tóc cho một phần nhân loại thì tiếc thay, thực tế lại khá phủ phàng. Một số quốc gia vẫn không áp dụng các quyền tự do căn bản của con người dù đã ký kết vào tất cả ba văn bản ghi trên của Bộ Luật quốc tế Nhân Quyền. Thậm chí có thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền, cơ quan tối cao của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền, lại là quốc gia vi phạm nhân quyền công khai và trắng trợn: trường hợp Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa là một !

Vượt quá các quốc gia, quyền của con người lại đang phải trải qua một thử thách mới do sự mù quáng của một số tín đồ cực đoan của đạo Hồi, một tôn giáo lớn có mặt gần khắp địa cầu. Quyền tự do tư tưởng, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng đang bị đe dọa nghiêm trọng ngay trong lòng các quốc gia Tây phương như vụ tàn sát các ký giả của tờ báo Charlies Hebdo ở Pháp vừa qua và tiếp theo, tại thủ đô Đan Mạch với thiệt hại nhẹ hơn vì hung thủ không  dột nhập được vào hội trường, nơi đang diễn ra một buổi thảo luận về quyền tự do phát biểu, tự do báo chi qua vụ Charlies  Hebdo ở Pháp.

Nhân quyền còn bị vùi đạp man rợ hơn nữa tại vùng ranh giới Irak và Syrie. Một nhóm cực đoan chiếm cứ một vùng ở đây, lợi dụng cuộc chiến chống chính quyền Syrie tại vùng tranh chấp này, đã thành lập một « Quốc gia Hồi giáo Irak- Syrie » ( Islamic State of Irak and Syria) áp dụng những cực hình làm lu mờ những cực hình của thời Trung Cổ, như chặt đầu, thiêu sống nạn nhân mà một số bị chúng kết tội «  tà đạo »  vì không cùng một tôn giáo với chúng.

Thiết tưởng trong những vụ được gọi là khủng bố của hồi giáo cực đoạn đã và đang xẩy ra ở nhiều nơi, đặc biệt ở Trung Đông, Phi Châu, Âu Châu, Úc, Gia nã đại,  phần lớn nguyên do bắt nguồn từ thái độ hận thù của khuynh hướng Hồi giáo cực đoan đối với đạo Do Thái và Thiên Chúa giáo, trở thành đố kỵ và dị ứng với văn minh Tây phương. Vụ quốc gia Israel chiếm cứ  lãnh thổ của Palestine mà đa số dân chúng theo đạo Hồi, kéo dài hơn nữa thế kỷ nay trước sự bất lực của cộng đồng thế giới càng khiến cho tâm lý hận thù thêm nặng nề. Tính mạng của con người, quyền sống tự do, mưu cầu hạnh phúc bị thường xuyên đe dọa. Nhân quyền không còn được coi trọng nữa trong bối cảnh của hận thù tập thể, của cuồng tín mù quáng làm lu mờ lý trí, đánh mất lương tâm và lòng nhân đạo.

- Hiến Pháp và Nhân Quyền
Nếu lịch sử của nhân quyền đang còn bị hoen ố bởi một số chế độ chính trị lỗi thời, lạc hậu đi ngược trào lưu dân chủ tự do của thế giới và bởi sự cuồng tín mù quáng của một số quần chúng trong vài quốc gia kém mở mang thì ngược lại, nhân quyền, nói chung, có một vị trí đáng kể trong hiến pháp của đại đa số quốc gia và ngay cả trong sinh hoạt dân chúng qua  những tổ chức xã hội dân sự.

Trong mọi hiến pháp của các nước tự do dân chủ, hầu hết các chương mục quan trọng đều thể hiện ý niệm nhân quyền, từ nền tảng triết lý chính trị đến các chính sách quốc gia văn hóa, giáo dục, xả hội, dân sinh, kinh tế, chính trị. Tất cả đều phải đồng qui về một mục tiêu: phục vụ người dân, vì có dân mới có quốc gia, Nhà Nước, một nguyên lý đã được đề cao gần 2400 năm trước : « Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh » (Mạnh Tử), chứ không phải đợi đến các chính khách, các luật gia hiến pháp học bây giờ. Và quyền công dân chỉ là quyền của con người, một nhân quyền được kiến trúc trong khuôn khổ một xã hội đã được tổ chức thành một quốc gia.

Sự hiện diện của đầy đủ nhân quyền trong một hiến pháp  chứng tỏ mức độ cao của nền dân chủ của quốc gia ấy. Ngược lại, sự vắng bóng nhân quyền hay sự thiếu sót bảo đảm một cách minh thị nhân quyền trong một hiến pháp tố cáo một chế độ chính trị mờ ám nếu không phải là độc đoán, độc tài.

Các hiến pháp của các quốc gia dân chủ có thể khác nhau về mô hình của thể chế nhưng nội dung về chất lượng dân chủ, tự do, nhân quyền không khác biệt nhau đáng kể. Riêng về Việt Nam Cộng Hòa trước 1975, chúng ta có hai hiến pháp của Đệ Nhất và Đệ nhị Cộng Hòa, 1956 và 1967, đều theo tổng thống chế (régime présidentiel). Dù trong hoàn cảnh bạo loạn và chiến tranh do cộng sản phát động, hai hiến pháp vẫn thể hiện đúng mức dân chủ và nhân quyền. Vài hạn chế vì lý do an ninh và chống Cọng thực ra quá ít so với tình thế lúc bấy giờ.

Nói chung, dù ở trong mô hình nào kể trên, hiến pháp của các nước dân chủ hiện đại cũng dành cho nhân quyền một vị trí hàng đầu thể hiện trong các quyền công dân căn bản bên cạnh những điều khoản khác về thể chế chính trị, các chính sách quốc gia, tổ chức công quyền, sự hoạt động của các định chế quốc gia .v.v…

Mọi đạo luật của cơ quan lập pháp, mọi quyết định của hành pháp như sắc lệnh, nghị định .v.v… có thể bị Viện Bảo Hiến hủy bỏ nếu vi phạm một điều khoản hay ngay cả tinh thần của hiến pháp. Tại Hoa Kỳ, Tối cao Pháp viện Liên bang hành sử thẩm quyền của Viện Bảo Hiến như vừa kể trên, nước Pháp và Việt Nam Cộng Hòa đều có một Viện Bảo Hiến riêng biệt mà tổ chúc gần giống nhau. Một điều khỏan luật lệ vi phạm nhân quyền trái với hiến pháp đều bị xem là vi hiến, phải bị hủy bỏ.

- Nhân quyền và quyền dân tộc tự quyết
Nhân quyền cũng là lẽ sống của một con người. Tôn trọng nhân quyền là nhìn nhận giá trị siêu việt của con người mà không một thế nhân nào, không một quyền bính nào có thể tước đoạt. Nhân quyền không phải là một vật « xin, cho ». Ròng rã bốn mươi năm nay, cuộc tranh đấu đòi lại nhân quyền không lúc nào ngưng nghỉ, chỉ khi yếu, khi mạnh nhưng khí thế mãnh liệt hơn với thời gian. Vì sự sợ hãi cá nhân đã nhường bước cho lòng can đảm tập thể. Vì phần lớn cộng đồng quốc tế đã can thiệp với chính quyền cộng sản.

Nhưng tiếc thay, cộng sản Việt Nam vẫn ngoan cố chối cãi hoặc giải quyết vài trường hợp để khỏi làm mất mặt một vài quốc gia mà chúng mang ơn. Kinh nghiệm ê chề này chắc chắc sẽ kéo dài vô tận. Tiềm lực quốc gia suy yếu giữa lúc hiểm họa ngoại xâm ngày càng gia tăng.

Trước thế nước như vậy, chiến lược tranh đấu cho nhân quyền phải thay đổi và phải lồng vào trong cuộc tranh đấu giành lại quyền tự quyết của dân tộc. Vì sự sống chung nhân quyền với một chế độ độc tài toàn trị là một nghịch lý tuyệt đối. Vì chỉ khi nào dân tộc đã giành lại được quyền tự quyết của mình để thiết lập một thể chế chính trị dân chủ, tự do thực sự thì nhân quyền mới được áp dụng và tôn trọng đúng mức, thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của con người, thể chất và tâm linh.

Paris, tháng 3, 2015
LS Lê Trọng Quát


Thứ Ba, 24 tháng 2, 2015

Thông điệp Dân Tộc Tự Quyết- Ất Mùi 2015


.

Thông điệp Dân Tộc Tự Quyết- Ất Mùi  2015
Trân trọng kính gửi đông bào  ở quê hương và hải ngoại
Đồng bào thân mến,
Thấm thoát đã bốn mươi năm từ ngày bức màn sắt oan nghiệt bao trùm cả đất nước Việt Nam chúng ta sau khi Cọng quân hoàn tất cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, Miền Nam thân yêu của Tổ Quốc

Hiệp định Paris 27 tháng 1, 1973 và Văn bản chung kết  2 tháng 3, 1973 nhằm chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam, tôn trọng các quyền quốc gia căn bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam và đóng góp cùng bảo đảm nền hòa bình ở Đông Dương……..Hiệp Định cũng đồng thời bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam……….Văn bản chung kết ( Acte final ) ngày 2 tháng 3 , 1973 của Hiệp định minh thị  sự cam kết bảo đảm các điều ghi trên đã được mười hai chính phủ ký kết gồm có đại diện của bốn phe tham chiến : Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam), Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ( Cộng sản Bắc Việt), Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam VN ( Việt Cọng, con đẻ của CSBV) và tám quốc gia : Anh quốc, Pháp, Gia – nả - đại,  Ba lan, Hung-gia –lợi, Nam Dương, Nga –Sô và Trung Cọng, trước sự chứng giám của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc.

Hiệp định vừa được ký kết thì cộng sản đã vi phạm tức thời từ những vụ lấn chiếm đất ở nhiều nơi đến những vụ tấn công qui mô vào các vị trí quân sự và các tỉnh thị của Việt Nam Cộng Hòa. Cuối cùng chúng đã xâm chiếm Miền Nam ngày 30 tháng tư 1975 trước thái độ dững dưng hay bất lực của các quốc gia ký kết Hiệp Định Paris và Liên Hiệp quốc.

Quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã anh dũng chiến đấu đến phút cuối cùng với những tướng lãnh, sĩ quan , binh sĩ trong quân đội cũng như trong  các ngành Cảnh sát, An Ninh tuẩn tiết, có cả trường hợp tuẩn tiết cùng  với gia đình vợ con, chứ nhất định không để rơi vào tay địch. Hành động bi hùng của các liệt sĩ này càng đáng được vinh danh hơn nữa khi sự thật lịch sử đã sáng tỏ là quân lực ta không thể nào một mình, sau khi đồng minh của chúng ta đã rút hết khỏi chiến trường, đương đầu được với quân  thù được cả khối cộng sản quốc tế yểm trợ  mọi mặt.

Quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam và tất cả các quyền căn bản của toàn dân Việt mà Hiệp Định Paris xác định và các quốc gia ký kết bảo đảm thực thi đã bị cưỡng đoạt bởi bạo lực cộng sản. Nhưng bạo lực không thể tiêu hủy luật pháp quốc tế mà thế giới đã dày công xây dựng và tôn trọng để đảm bảo an ninh, hòa bình và trật tự cho nhân loại văn minh ngày nay. Một quốc gia muốn được tồn tại và phát triển điều hòa phải là một quốc gia pháp trị. Một thế giới muốn được hòa bình và phát triển lâu dài cũng phải thượng tôn luật pháp. Một nền luật pháp công minh được xây dựng trên căn bản tôn trọng nghiêm chỉnh dân quyền và nhân quyền trong một quốc gia và tôn trọng tuyệt đối quyền dân tộc tự quyết của một dân tộc trong cộng đồng thế giới. Thiếu sự tôn trọng luật pháp quốc gia và quốc tế, luật rừng sẽ ngự trị như chúng ta đang chứng kiến ngày nay trong một số quốc gia và trên nhiều vùng ở Âu, Á, Phi, Trung Cận Đông.

Nạn nhân của bạo lực cộng sản trong bảy mươi năm nay, dân tộc ta đã phải chịu quá nhiều tang tóc và khổ lụy. Xương đã chất thành núi, máu đã chảy thành sông qua hai cuộc chiến tranh mà cộng sản đã gây nên ( 1945-1954 và 1958-1975) dưới danh nghĩa dối trá chiến đấu cho độc lập tự do. Kỳ  thực, từ ngày Nhật bản đầu hàng Đồng Minh giữa tháng tám 1945, chính phủ Nhật đã trao trả hoàn toàn độc lập cho quốc gia Việt Nam do hoàng đế Bảo Đại thay mặt tiếp nhận. Cũng sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, các đế quốc Tây Phương đã lần lượt  trao trả độc lập cho các nước lệ thuộc cũ ở Á – Phi. Dưới danh hiệu Việt Minh ( Việt Nam Độc lập Đồng Minh Hội), cộng sản đã cướp chính quyền,vua Bảo Đại phải thoái vị. Đến năm 1948, với thỏa ước  Élysées, Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam nhưng cộng sản vẫn tiếp tục đánh phá, luôn luôn nhằm mục đích nhuộm đỏ Việt Nam và  MIên, Lào. Từ tháng 10, 1949, sau khi Mao Trạch Đông bá chủ lục địa Trung Hoa,  Cộng đảng Việt Nam thần phục hoàn toàn Trung Cọng, trở thành một hậu cứ vĩ đại tiếp liệu và huấn luyện, trang bị, biến những nhóm quân ô hợp và yếu kém của cộng sản VN thành một quân đội chính qui đến cấp trung đoàn, đại đoàn, sư đoàn. Hậu quả khốc hại của sự thần phục và nương tựa này đã đưa lần đất nước đến thảm trạng ngày nay : sự lệ thuộc của tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt Nam với cộng sản Trung Hoa trên mọi mặt , giáo điều chủ nghĩa, kinh tế, thương mãi, nhường đất, nhường biển, cho người Trung Hoa khai thác tài nguyên, lập thành những khu vực tự trị ở nhiều nơi có tính cách chiến lược thiết yếu cho nền quốc phòng Việt Nam. Thái độ luồn cúi của bộ trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh trước các nhà chức trách Trung Cọng khuôn rập với các lời tuyên bố của các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam không phải là những cử chỉ và ngôn từ  ngoại giao mà thể hiện rõ ràng sự khuất phục trước lãnh đạo Trung Cọng.

Hội nghị Thành Đô 1990  bị bật mí bởi chính một số tướng lãnh, sĩ quan và đảng viên cộng sản lão thành tạo thành một mối đe dọa lớn lao cho tổ quốc  bởi các nhà lãnh đạo cộng sản đã trả ơn cho Trung Cọng bằng sự chấp thuận biến nước ta thành một đơn vị tự trị của Trung quốc trong cuối thập niên này. Đến nay, đảng và chính phủ cộng sản Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa không công bố nội dung của thỏa hiệp khiến cho toàn dân hết sức lo âu. Một ngàn năm Bắc thuộc vẫn là một ám ảnh cực kỳ đen tối trong đầu óc chúng ta.

Trước tình hình nghiêm trọng của đất nước, tôi thành khẩn kêu gọi đồng bào ở trong nước cũng như ở hải ngoại cùng nhau đứng lên tranh đấu đòi Cộng đảng phải trả lại cho dân tộc quyền tự quyết thiêng liêng để toàn dân xây dựng một chế độ dân chủ, tự do đích thực vì chỉ có một chính quyền do dân bầu ra, sống chết vì dân với những người lãnh đạo tài năng, đức độ sẳn sàng hy sinh cho tổ quốc mới huy động được toàn dân vào công cuộc cứu nước và dựng nước. Chính từ đấy mà nước Việt nam tương lai mới có đủ uy tín và khả năng liên kết với các quốc gia trong vùng Á Châu – Thái Bình Dương đặng cùng nhau bảo vệ an ninh và hòa bình chung trong toàn vùng.

Tôi thành khẩn kêu gọi các nhà lãnh đạo cộng sản trong nước đáp ứng nguyện vọng của toàn dân để hành sử như các nhà lãnh đạo Nga Sô cũ, Gorbachev và Yelsine, tránh cho đất nước đã quá khổ đau, một cuộc xung dột có thể là khốc liệt mà chính quý vị phải chịu hoàn toàn trách nhiệm sau khi Cộng đảng của quí vi đã mang nặng trách nhiệm gây nên trong những thập niên qua . Luật pháp và lịch sử sẽ phán xét nghiêm khắc quí vị.

Đồng hành với quốc dân, quí vị sẽ được quốc dân tri ân. Một trang sử mới sẽ  mở ra với toàn dân đoàn kết thực sự để cứu nước và dựng nước, xóa bỏ hận thù, cầm tay nhau mà tiến lên ca khúc khải hoàn cho Tổ quốc Việt Nam.

Thân ái kính chào đồng bào.
Thành thật kính chào qui  vị.
LS Lê Trọng Quát

Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2014

Từ Những Bài Học Đắt Giá Của Lịch Sử Cận Đại Đến Những Triển Vọng Của Tương Lai

 

Từ Những Bài Học Đắt Giá Của Lịch Sử Cận Đại Đến Những Triển Vọng Của Tương Lai

LS Lê Trọng Quát
 

Tháng 8 năm 1945, đệ nhị Thế chiến hoàn toàn chấm dứt từ Âu sang Á. Cuộc chiến ác liệt kéo dài năm năm cùng với những hành động có tính cách diệt chủng đã để lại không kể xiết điêu tàn tang tóc. 
Nhiều đô thị và trung tâm chiến lược ở Đức, Nga Sô và Nhật Bản đã trở thành những bãi chiến trường đổ nát hay những cánh đồng ma quái với cả trăm ngàn người chết cùng lúc dưới bom nguyên tử hay những trận mưa bom.  Nhưng rồi hoà bình đã đến. Nhân loại vừa thoát khỏi một cơn ác mộng dài thở phào nhẹ nhỏm. Một bình minh rạng rỡ đang dâng lên chan hòa muôn ánh hào quang và hy vọng như bừng sống lại khắp nơi. Ngoại trừ một chổ: Việt Nam, nơi sự bất hạnh dồn tụ lại như bao nhiêu tảng mây đen cùng nhau kéo đến che phủ một góc trời. Một nước Việt Nam trước đấy gần như đứng ngoài cuộc chiến. Thật vậy, dù ác chiến diễn ra trên Thái Bính Dương giữa Mỹ, Nhật, Đông Dương vẫn tương đối được yên ổn với thỉnh thoảng vài vụ oanh tạc nhỏ của Không lực Hoa Kỳ vào các vị trì và đường giao thông bị nghi ngờ có quân đội Nhật qua lại.   Nay, giữa tháng tám 1945, Nhật Bản vừa đầu hàng, chiến tranh thế giới hoàn toàn chấm dứt thì Việt Nam lại lên cơn sốt dữ dội.. Toàn thân rung động vì chưa hồi phục được sau một nạn đói, chết hơn cả triệu người ở Miền Bắc của đất nước. Một cơn sốt chính trị chưa từng xảy ra vì cho đến bấy giờ dân Việt chưa có lúc nào được quyết định số phận của mình trong suốt tám mươi năm dưới sự đô hộ của Pháp.  Tháng tám 1945, cuộc nội chiến Việt Nam bắt đầu. Cuộc nội chiến giữa hai phe quốc cọng với cả khối Công sản quốc tế lần lượt đứng sau lưng cộng sản Việt Nam như một hậu cứ vũng chắc và bền bỉ trong lúc vài nước Tây phương đứng đầu là Hoa Kỳ hổ trợ phe quốc gia chiến đấu để bảo vệ tự do cho dân tộc Việt Nam chống lại sự bành trướng của Đế quốc đỏ bằng bạo lực của một cuộc xâm lăng công khai và trực diện.  Ba mươi năm sau, đúng ngày 30 tháng tư 1975, cuộc nội chiến chấm dứt trên bình diện quân sự. Cộng sản hoàn tất cuộc xâm lăng Miền Nam, thực hiện mục tiêu bá chủ nước Việt Nam, khống chế cả bán đảo Đông Dương.    Cũng đúng ba mươi năm sau ngày thôn tính Miền Nam, cộng sản Việt Nam «trân quý» hơn bao giờ cả những người Việt quốc gia ở hải ngọai, những «khúc ruột ở xa ngàn dặm» đã đổ tiền về để cứu giúp đồng bào và quê hương nghèo khổ, có lúc gần suy sụp dưới sự thống trị của họ.  Những Việt kiều ở nước ngoài mà những năm trước đây họ còn xem như thù địch và gán cho đủ mọi danh từ xấu xa nhất trong kho tàng văn chương tuyệt vời của họ.
Ba mươi năm nội chiến quốc cọng được tiếp tục bởi ba mươi năm của một cuộc đổi đời và cuộc «đại chiến thắng mùa Xuân 1975» đã thành công lớn lao trong sự nghiệp. đào được một cái hố sâu thăm thẳm để chôn vùi tương lai của cả dân tộc.  Không thể nào làm khác hơn, năm 1986, cộng sản buộc lòng «đổi mớỉ » để mong thoát cảnh khốn cùng vô phương cứu chủa ngọai trừ một phương độc nhất là chối bỏ chủ nghĩa của họ, một chủ nghĩa mà họ đã thờ phụng và không ngần ngại hy sinh xương máu của đồng bào để phục vụ cho đến khi mộng vỡ tan tành. Phương độc nhất ấy là chạy theo kẻ cựu thù đế quốc tư bản, áp dụng chính sách kinh tế thị trường của chúng nó và van xin đủ mọi thứ, khắp mọi nơi.  Không theo không được vì đây là sinh lộ cuối cùng sau khi con đường cách mạng, bạo lực và chiến tranh kéo dài ba mươi năm mà đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra đã rõ ràng là một tử lộ cho toàn dân Việt.  Đây là bài học lớn nhất, đắt giá nhất, dành cho người cộng sản Việt Nam bên cạnh những bài học khác mà những người quốc gia chúng ta cần suy nghiệm, và sau cùng, những bài học mà Hoa Kỳ cũng như giới trí thức và ngụy trí thức tả khuynh Tây phương nên thành khẩn và khiêm cung học hỏi để cho lịch sử đừng tái diễn, tránh được phần nào khổ đau cho nhân loại.
I. NHỮNG BÀI HỌC CỦA LỊCH SỬ CẬN ĐẠI THEO THỨ TỰ THỜI GIAN CỦA CÁC BIẾN CỐ TỪ 1945
A- Giai Đoạn 1945 – 1954: Từ Độc Lập Đầu Tiên Đến Chia Đôi Đất Nước
Những Nét Chính Của Tình Hình :

1- Các Biến Cố Từ gần 9 giờ tối mồng 9 tháng 3, 1945, trên toàn cõi Đông Dương, quân đội Nhật (còn gọi là quân đội Thiên Hoàng) bất ngờ tấn công cùng lúc các cơ quan đầu não của chính quyền Pháp, các cơ sở quân sự, và cuộc kháng cự của quân Pháp không kéo dài quá một ngày ngọai trừ vài cánh quân thoát được sang Trung Hoa. Ngày 10 tháng 3, đại diện Nhật Hoàng, Đặc sứ Yokohama đến loan báo cho Vua Bảo Đại quyết định của Nhật trao hoàn độc lập cho Việt Nam, tạm thời giới hạn ở Bắc và Trung Kỳ, riêng Nam Kỳ thì Nhật tạm thời kiểm soát cho đến khi hết chiến tranh. Ngày 12 tháng 3, Vua Bảo Đại trao cho đặc sứ Nhật bản tuyên cáo độc lập của nước Việt Nam.    Nhà Vua nhờ nhà chức trách Nhật tìm ông Ngô Đình Diệm để mời lập chính phủ nhưng sau ba tuần lễ, đặc sứ Nhật cho biết không tìm được. Thực ra, Nhật không muốn ông Diệm làm Thủ tướng vì biết chắc ông Diệm không phải là người dễ nhượng bộ, dễ thỏa hiệp, có thể gây trỏ ngại cho họ sau này. Ngày 17 tháng 4, ông Trần Trọng Kim , thanh tra tiểu học, lập chính phủ. Ông Kim bị Pháp dọa bắt nên được Nhật đưa sang Singapour tạm trú, nay được Nhật mang về giới thiệu với  Vua Bảo Đại. Đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, qui tụ nhiều nhân vật trí thức khoa bảng như luật sư Trần văn Chương, Bộ trưởng Ngoại giao, luật sư Vũ văn Hiền, Bộ trưởng Tài chánh, luật sư Trịnh đình Thảo, Bộ trưởng Tư pháp, bác sĩ Hồ Tá Khanh, Bộ trưởng Kinh tế, Thạc sĩ Hoàng xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục, luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên, bác sĩ Vũ Ngọc Anh, Bộ trưởng Y tế và Cứu tế Xã hội, Kỹ sư Lưu văn Lang, Bộ trưởng Công chánh, Giao thông, y sĩ Trần đình Nam, Bộ trưởng Nội vụ, y sĩ Nguyễn hũu Thí, Bộ trưởng Tiếp tế.  Ngày 16 tháng 8, đặc sứ Nhật đến loan báo cho Vua Bảo Đại hay Nhật Hoàng vừa ra lệnh ngưng chiến và giao hoàn Nam Kỳ lại cho Nhà Vua.  Ngày hôm sau, nhà ái quốc Nguyễn văn Sâm được Nhà Vua  bổ nhiệm làm Khâm sai Nam Kỳ nhưng trên đường về Nam nhậm chức, ông đã bị cộng sản sát hại.   Ngày 18, Thủ tướng Trần Trọng Kim kêu gọi các đoàn thể chính trị « đoàn kết trong tinh thần thống nhất đoàn kết quốc gia…» trong lúc Nhà Vua gửi điện văn cho các lãnh tụ các nước Đồng Minh Hoa Kỳ, Anh quốc, Pháp và Trung Hoa Dân quốc xin công nhận nước Việt Nam độc lập. Bức điện văn không được hồi âm, có lẽ vì Vua Bảo Đại và chính phủ bị Đồng Minh xem là đã hợp tác với địch (Nhật Bản).  Trong suốt mấy tuần lể quyết định này, giữa lúc cộng sản dưới bảng hiệu Việt Minh họat động ráo riết, đặc biệt ở Hà Nội, chính phủ không đưa ra một biện pháp nào cụ thể để trấn an dư luận đang hoang mang tột độ, cũng không tác động tinh thần công chức và các lực lượng quân sự và cảnh sát dưới quyền, dù không hùng hậu nhưng vẫn thừa sức đối phó với tình thế, chưa kể quân đội Nhật được lệnh của Đồng Minh duy trì an ninh trật tự sẵn sàng hợp tác với chính phủ.  Không có được một mạng lưới tình báo, không hay biết gì cả về những họat động của Việt Minh, Nhà Vua và chính phủ mất tinh thần một cách dễ dàng trước những tin đồn đại do Việt Minh tung ra, qua những cán bộ « võ trang tuyên truyền », võ trang thô sơ với một ít súng lục, nhiều cái rỉ rét, thỉnh thỏang bị kẹt đan không xử dụng được. Không kiểm soát được, chính phủ « thả nổỉ »  tình hình, đất nước như một cánh đồng vô chủ mênh mông!  Theo lời của chính cựu Hoàng Bảo Đại kể lại một cách thành thật, thỉnh thoảng rất thật thà, trong cuốn hồi ký của ông, Con Rồng An Nam (Le Dragon d’Annam) xuất bản năm 1979 tại Pháp, ngày 23 tháng 8 (1945), chính phủ biến đâu mất, để Hoàng Đế một mình trong hoàng cung với vài người cộng sự thân tín và một toán lính giữ cổng ra vào. Ngày hôm trước, viên đại tá chỉ huy quân trấn Nhật ở Huế đến báo cho Nhà Vua là y được lệnh của bộ tư lệnh Đồng Minh bảo vệ hoàng cung và « những người ở bên trong » và y đã ban hành những biện pháp an ninh, đặt các rào cản ở cuối cầu trường Tiền (chận một lối đi chính vào cửa Thượng Tứ và Thành Nội, bên trong là hoàng cung). Nhà Vua từ chối sự bảo vệ, yêu cầu tháo gỡ các rào cản và cho mở cửa ra vào Đại Nội như thường ngày, viện cớ không để cho quân đội ngoại quốc can thiệp và để tránh đổ máu của dân. Tối hôm trước, chủ sự Bưu điện Huế đến trình Nhà Vua một bức điện tín từ Hà nội gửi vào, thỉnh cầu ông vui lòng làm một cử chỉ lịch sử bằng cách trao quyền lại cho «nhân dân» nghĩa là cho người gửi điện tín ký tên một cách vô danh «Ủy ban những người yêu nước đại diện tất cả các đảng phái và tầng lớp nhân dân».  Nhà Vua cho hoàng thân Vĩnh Cẩn và ông Phạm khắc Hoè đi săn tin trong thành phố, nhưng không thu lượm được tin tức nào chính xác và không biết ủy ban, tác giả của bức điện tín ở đâu ra và gồm những ai. Bơ vơ trong hoàng cung vắng lặng, Nhà Vua kể tiếp, «không biết làm gì hơn, đã vậy, tôi gửi một điệp văn trong khoảng trống như vứt một cái chai xuống biển… Tôi gởi cho Ủy ban những người yêu nước ở Hà Nội lời phúc đáp của tôi, sẵn sàng lùi bước, sẵn  sàng hy sinh tất cả để thực hiện sự đoàn kết và yêu cầu các vị lãnh đạo Ủy ban đến Huế càng sớm càng tốt cho việc chuyển giao quyền hành».  Cái chai của Hoàng Đế vứt xuống biển đã được vớt lên lẹ làng và chiều ngày 25 tháng 8, hai đại diện của Việt Minh, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đã có mặt ở hoàng cung.  Khoảng vài nghìn người, hầu hết là công chức và học sinh, được triệu tập khẩn cấp đến chứng kiến buổi lê thoái vị và trao quyền của Nhà Vua.  Mới mười lăm tuổi, còn là học sinh trung học, gia đình tôi ở trong Thành Nội cách hoàng cung chỉ một trăm mét trên đường Bộ Học, sau này đổi thành Hàn Thuyên, nên tôi sớm có mặt trong đám đông tập họp trên sân cỏ rộng giữa kỳ đài đồ sộ với lá quốc kỳ treo cao lồng lộng trong gió, và cửa Ngọ Môn, cổng chính của hoàng cung, trên đó, chiều nay, một biến cố lịch sử đang xẩy ra, mở màn cho tấn thảm kịch trường thiên của dân tộc. Chít khăn vàng và bận áo vàng, Hoàng Đế Bảo Đại chính thức thoái vị trao quốc ấn tượng trưng quyền hành cho Trần huy Liệu và được Liệu mời ra Hà Nội làm Cố Vấn cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà chính thức ra đời một tuần lể sau, tức ngày 2 tháng 9, 1945.  Thật vậy, tấn trường thiên thảm kịch của dân tộc bắt đầu tại  cố đô Huế.  Hai mặt đông và nam của hoàng cung, hoa phượng vỹ thơ mộng của tuổi học trò nở đầy giữu mùa hè xứ Huế, thơ mộng dịu dàng với mái tóc thề của những đàng nữ sinh nón trắng che mặt thẹn thùng như những đàng bướm trắng tung bay mổi chiều tan học.  Màu đỏ thắm của hoa phượng vỹ đã phải nhường chổ cho màu đỏ máu hận thù của những lá cờ đỏ  sao vàng xuất hiện ở Huế, từ nay mang trổ lại tên Thuận Hóa, cái tên mà Nhà Nguyễn đã đặt cho thành phố này từ mấy thế kỷ và nay như một sự rểu cợt hay thiếu hiểu biết, cộng sản Việt Minh lại mang ra xử dụng khi Nhà Nguyễn vừa tự chấm dứt với sự thoái vị của Nhà Vua cuối cùng, Bảo Đại.  Tháng 9, 1945, quân Pháp trổ lại Việt Nam ngay tại Sài Gòn.  Chiến cuộc khởi sự. Dù nước Pháp đã công bố một chính sách mới thay thế qui chế thuộc địa (statut de colonie)ở Nam Kỳ và qui chế bảo hộ (statut de protectorat) ở Bắc và Trung Kỳ bằng một qui chế tương đối tiến bộ hơn dành quyền tự trị nội bộ (autonomie interne) – không được trọn vẹn- cho các quốc gia Việt, Căm-bốt và Lào, chính sách mới này vẫn còn lạc hậu trong tình huống mới ở Việt Nam mà chính phủ và hầu hết các giới chính trị Pháp ở thủ đô Paris kể cả phe tả không thẩm định đúng mức được.  Từ ngày 9 tháng 3, 1945 khi chính quyền Pháp bị quân Nhật lật đổ, không những uy quyền mà uy tín của nước Pháp cũng tiêu tan luôn. Dân chúng Việt Nam, muôn người như một, trong đầu hôm sớm mai, và nhất là sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh , trao trả độc lập và chủ quyền hoàn toàn cho Hoàng Đế và chính phủ Việt Nam như đã kể trước, dân chúng từ Bắc đến Nam đều say sưa với niềm hãnh diện của đất nước mình, của tổ quốc mình từ nay không bị một ngoại bang nào lấn ép và khinh rẽ nữa, một tổ quốc, một quốc gia độc lập,tự chủ.  Sự kiện quân đoàn viễn chinh Pháp trổ lại Việt Nam được xem như một mưu toan tái lập nền đô hộ củ.  Toàn dân, không còn phân biệt xu hướng chính trị, nhất loạt đứng lên đoàn kết chống xâm lăng. Vừa thành lập xong chính phủ được đúng ba tuần lể, Việt Minh cộng sản đã hưởng được ngay cái khí thế chưa bao giờ có của mọi tầng lớp dân chúng quyết tâm đánh đuổi quân thù.  Không ai còn để ý đến những chuyện khác nữa.  Cuộc kháng chiến chống Pháp thực dân khởi sự từ Nam Bộ (danh xưng mới thay thế cho Nam Kỳ dưới chế độ mới) khi quân đội Pháp phối hợp với quân đội Anh -đến giải giới quân Nhật ở vùng Nam Đông Dương- bất thần xâm nhập các công sở của Ủy Ban Hành chánh Nam Bộ vào tối 22 rạng ngày 23 tháng 9, 1945. Phản ứng của phía Việt Nam hai ngày sau châm ngòi cho một cuộc chiến không tránh được giữa Pháp và Việt Nam.  Đến tối 19 tháng 12 năm sau, chiến tranh lan rộng trên toàn quốc.  Chính phủ Hồ Chí Minh rút vào rừng tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến đấu. Trước đấy, ông Hồ đã ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3, 1946 cho phép quân đội Pháp đóng quân trên nhiều địa điểm ở Miền Bắc, đổi lại Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do, một thành viên của Liên bang Đông Dương (Fédération Indochinoise) và của Khối Liên Hiệp Pháp (Union Française).  Thế nhưng lịch sử của cuộc chiến tranh đầu tiên ở Việt Nam, thường được gọi là Chiến tranh Đông Dương (1945-1954) không đơn giản như nhiều người nhận thấy. Tôi đã ghi chú từ đầu cuộc chiến tranh  ba – mươi năm (1945-1975) là một cuộc nội chiến giữ hai phe quốc cọng.Một cuộc nội chiến giữa những người Việt theo chủ nghĩa cộng sản muốn nhuộm đỏ đất nước Việt Nam từ khi đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, và những người Việt quốc gia không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, quyết tâm tranh đấu bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Sự tham dự của ngoại bang,Pháp,Mỹ,Tàu,Nga v.v….không làm mất tính chất nội chiến này mà chỉ mang thêm, với sự hổ trợ của ngoại bang dành cho mổi phe dài dài theo cuộc chiến, một tính chất chiến lược quốc tế, tóm gọn: cộng sản muốn bành trướng Đế quốc Đỏ xuống miền Đông Nam Á Châu với tên lính tiền phong cộng sản Việt Nam và ngược lại, Thế giới Tự do đứng đầu là Hoa Kỳ muốn ngăn chận làn sóng đỏ ở biên thùy Việt-Hoa sau khi Mao Trạch Đông đã chiếm lĩnh Trung quốc cuối năm 1949.  Riêng đối với Pháp, cần phải phân tách cuộc tham chiến ở Việt Nam ra hai  giai đoạn. Giai đoạn một , từ lúc trở lại Đông Dương tháng 9, 1945 cho đến giữa năm 1947 họ mong muốn bằng sức mạnh hơn là thuyết phục lôi cuốn Việt Nam vào Liên Bang Đông Dương như một nước tự trị và giai đoạn hai từ 1948 trở đi, càng ngày càng lún sâu vào cuộc chiến  họ chỉ còn  mong Việt Nam ở lại trong Khối Liên Hiệp Pháp với tư cách một quốc gia liên kết (Etat associé) độc lập, tự do, một công thức tương tự với «Khối thịnh vượng chung» (Commonwealth) qui tụ trên nguyên tắc tự nguyện Anh quốc và những thuộc địa cũ của Đế quốc Anh ngày trước nay đã được trao trả độc lập mà không phải trải qua một cuộc chiến tranh nào cả. Đây là một điểm hết sức quan trọng cần nhấn mạnh trong lịch sử cận đại của thế giới : sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, hầu hết các nước bị trị của các đế quốc Tây  phương đều được lần lượt trao trả độc lập mà không phải phí phạm xương máu, ở Á Châu như Hàn quốc, Nam Dưong, Phi-luật-Tân, Mã Lai, Tân-gia-Ba, Ấn Độ, ở Trung Cận Đông, lần lượt đến các nước Phi Châu ngoại trừ Algérie với những ly do riêng của trường hợp này, nơi mà nhiều thế hệ người Pháp đã định cư, lập nghiệp và từ hơn cả thế kỷ Pháp đã  xem như một lãnh thổ, một tỉnh của họ!   Đối với Việt Nam, nền độc lập đã được trao trả dù chưa toàn vẹn ngay trước cả khi chiến tranh chấm dứt và giữa tháng 8, 1945 vừa đầu hàng Đồng Minh hôm trước, hôm sau Nhật Bản giao trả nốt Nam Kỳ cho Vua và chính phủ Việt Nam như đã trình bày.  Cái gọi là «cách mạng mùa thu 1945» của Cộng sản Việt Nam dưới bảng hiệu Việt Minh chỉ là một vụ đảo chính chính trị dành lấy chính quyền từ một nhà Vua và một chính phủ khiếp nhược  Cuộc chiến tranh kế tiếp hoàn toàn không phải là một cuộc chiến tranh dành độc lập vì, như đã trình bày, Việt Nam đã được độc lập rồi và khi quân Pháp trở lại Đông Dương, nếu Vua Bảo Đại và chính phủ của Nhà Vua còn tồn tại, thì chắc chắn sẽ có những cuộc thương nghị rất khó khăn với Pháp nhưng chung cuộc, Việt Nam vẫn duy trì nền độc lập và rất co thể gia nhập Khối Liên Hiệp Pháp lúc bấy giờ.Tiến trìng giải thể các đế quốc Tây phương đã được các nước Đồng Minh chấp nhận trước khi thế chiến chấm dứt và nước đồng minh quan trọng nhất là Hoa Kỳ, đang còn dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Roosevelt, rất cương quyết trong dự định này, nhất là đối với Đông Dương mà Roosevelt quan tâm đặc biệt và nhiều lúc còn nặng lời nhắc nhỡ nước Pháp. Đây là một trong những nguyên nhân tiềm ẩn của thái độ của nước Pháp, đồng minh nhưng không thân thiện với Hoa Kỳ.  Nhưng từ năm 1950, trước làn sóng đỏ đã tràn đến biên giới Việt-Hoa,cuộc chiến hoàn toàn thay đổi tính chất và Hoa Kỳ san sẻ gánh nặng bằng quân cụ, vũ khí đủ loại và tài chánh cho chính phủ Pháp để tăng cường lực lượng chiến đấu chống cộng sản ở Đông Dương trước một kẻ địch bổng nhiên mạnh hẳn lên do sự hổ trợ không giới hạn của Mao trâch Đông. Trung Cọng trở thành một hậu cứ vĩ đại cho Việt Minh. Chiến tranh du kích đã trở thành thứ yếu. Được huấn luyện, trang bị và tiếp liệu đầy đủ, lực lượng quân sự của Việt Minh đã bước vào giai đoạn trận địa chiến đến cấp trung đoàn,tiến lần đến đại đoàn, sư đoàn.  Về phía quốc gia, các lực lượng quân sự cũng được tổ chức qui mô. Quân đội quốc gia Việt Nam được thành lập lanh chóng và chiến đấu bên cạnh quân đội Liên Hiệp Pháp ở nhiều mặt trận, đồng thời đảm nhận phần lớn nhiệm vụ bảo vệ diện địa.  Cuộc chiến chấm dứt với hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 phân chia tạm thời  Việt Nam thành hai miền  Bắc Nam như chúng ta đã biết với sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Cộng sản đã chiếm được một nửa đất nước. Dù được tự do lựa chọn, không một thường dân nào ở miền Nam ra miền Bắc trong lúc một triệu đồng bào từ Bắc di cư vào Nam để được sống dưới chế độ tự do, một cuộc di cư lớn lao thực hiện trong vòng mười tháng như chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam.  Bức màn sắt đã hạ xuống trên miền Băc thân yêu của tổ quốc.
 Những Bài Học:    
Từ một giai đoạn đầy biến động đưa đến cảnh phân chia đất nước như vừa trải qua, chúng ta có thể rúr ra nhiều bài học vô cùng quan trọng và hửu ích, theo thứ tự thời gian của các biến cố.  
Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim(tháng 3-tháng 8,1945):   Làm chính trị,đặc biệt trong cương vị lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo chính phủ,là phải giữ vững lòng can đảm, không lùi bước trước hiểm nguy, không để mất tinh thần trước đe dọa.    Lãnh đạo là tiên liệu những biến chuyển có thể xảy ra để ngăn ngừa trước, để chuẩn bị đối phó, làm chủ động tình thế và nắm lấy thời cơ. Khi có chính quyền trong tay, phải liên tục hữu hiệu hóa guồng máy Nhà nước cũng như quân lực, không ngừng cải tiến, không ngừng sửa sai..    Căn bản trí thức là một cái vốn quý nhưng tư tưởng, kiến thức phải đi đôi với hành động có kế hoạch  cụ thể nếu không thì e sẽ rơi vào tình trạng của những hủ nho của một thời xưa.  Nếu Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim hành sử như vậy, Việt Minh không thể dành được chính quyền và lịch sử cận đại đã có thể theo một chiều hướng khác.
Các Đảng Phái Quốc Gia: Đã hoạt động từ nhiều năm trước, đáng lẽ các chính đảng quốc gia phải ra tay hành động, liên kết với chính phủ để giữ vững chính quyền, hướng dẫn quần chúng đang hăng say độc lập tự do, ủng hộ chính quyền tại vị. Dù chính phủ có yếu đi nữa – điều khá rõ rệt – các chính đảng phải thúc đẫy chính phủ, dùng mọi áp lực để trấn tỉnh chính phủ và Nhà Vua và cùng nhau làm việc. Chúng ta cũng  không quên rằng Viêt Nam Quốc Dân Đảng rất thân gần như đồng chí với Quốc Dân Đảng Trung Hoa đang lãnh đạo và quân đội Trung Hoa của Thống Chế Tưởng Giới Thạch đã được Đồng Minh giao phó trách nhiệm giải giới quân đội Nhật ở Miền Bắc. Một thế lực không thể lớn hơn lúc bấy giờ cũng như trong suốt thời gian quân đội Trung Hoa đóng ở ngay thủ đô Hà Nội. Đảng Đại Việt cũng có tổ chức và hoạt động ở Miền Bắc trong đầu thập niên bốn-mươi. Có lẽ những vấn đề nội bộ của mổi đảng, hợp tác giữa hai đảng, cộng tác với Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim, không được giải quyết lanh chóng kịp thời chăng trong lúc tình  thế biến chuyển  rất lanh như đã trình bày. Một hành dộng đoàn kết nhất trí giữa những nhà lãnh tụ quốc gia đã không xảy ra trong giờ phút quyết định của lịch sử khiến cho cộng sản thành công dễ dàng, dễ dàng quá hơn họ đã dự liệu.    Đây là một bài học lớn cho tất cả chúng ta và đặc biệt cho những người trong chúng ta đang tự gánh giờ đây môt trách nhiệm trước quốc dân.
Cộng sản Việt Nam: Thành công tranh đoạt được chính quyền tháng 8 năm 1945, Cộng sản Việt Nam bắt đầu dẫn dắt dân tộc vào một cuộc phiêu lưu gần  mười năm, hy sinh hàng trăm ngàn sinh linh, tàn phá hơn một nửa đất nước cho đến ngày xứ sở bị chia đôi thành hai miền Nam Bắc tháng 7 năm 1954.    Sự tôn thờ mù quáng và áp đặt một chủ nghĩa ngoại lai trên một dân tộc là một điều cần phải tránh vì trước hết, hành động ngang ngược này loại bỏ quyền tự do tư duy và lựa chọn của mổi người dân trong nước. Sự áp đặt chủ nghĩa hay chủ thuyết đã chứng tỏ hậu quả khốc hại của nó với chủ nghĩa quốc-xã của Hitler và chủ nghĩa cộng sản hay xã hội chủ nghĩa dưới thời Lénine và Staline rồi đến các lãnh tụ kế tiếp ở điện Cẩm-linh cho đến khi Gorbatchev lên cầm quyền. Những nước văn minh tiền tiến trong thế giới không làm như vậy mà chỉ đặt định rõ ràng những mục tiêu không thay đổi và có lợi cho tất cả mọi người dân trong nước bất luận thuộc khuynh hướng nào : tự do, dân chủ, công bằng xã hội và phúc lợi của toàn dân. Dân quyền và nhân quyền được cụ thể hóa trong các mục tiêu này.   Đế quốc Nga Sô, các nước cộng sản ở Đông Âu và Á Phi ngoại trừ Cuba, Bắc Hàn, Trung Cọng, Việt Nam và Lào đã sụp đổ lanh chóng vì áp dụng một chủ nghĩa sai lầm không phù hợp với nhân tính và đi  ngược lại với sự tiến hóa tất yếu của nhân loại.    Đây là một bài học lớn cho đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi chắc họ đã hiểu nhưng vì quyền lợi riêng tư của những người lãnh đạo,họ không muốn xét lại toàn bộ chế độ. Sự chần chừ và chậm trể của họ càng làm cho dân uất hận thêm và nguy hiểm cho chính họ khi dân chúng nhất tề theo nhau đứng lên thực hiện lấy sự thay đổi chế độ.    Thắng một thời, sai một đời, mang tội muôn đời, những người cầm đầu Cộng đảng Việt Nam cần suy ngẩm đến diễn tiến này của lịch sử.

B- Giai Đoạn 1954-1975 : Từ Di Cư Đến Di Tản
Những Nét Chính Của Tình Hình :  
Trở về Hà Nội chưa được bao lâu Cộng sản đã chuẩn bị phát động vụ đấu tố «địa chủ,cường hào, ác bá » trên Miền Bắc vừa tiếp thu. Số nạn nhân không thể kiểm kê được rõ nhưng phải kể đến cả trăm ngàn người, một tội ác chống nhân loại đứng hàng đầu.  Áp dụng đúng lời dạy của Mao Trạch Đông, mà cuộc đấu tố trên lục địa đã giết hại hàng chục triệu người.  Dân chúng ở hai tỉnh Hà Tỉnh, Nghệ An, quê quán của ông Hồ Chí Minh, vốn là lò lửa cách mạng vô sản, đã từng lập sô-viết Nghệ Tỉnh trong các cuộc nổi dậy từ tháng 5, 1930 đến tháng tư 1931, dân Nghệ Tỉnh ấy nổi dậy một lần nữa nhưng lần này, để chống đối dữ dội đến độ cả một sư đoàn quân đội nhân dân phải được phái đến dẹp loạn !    Nhưng rồi đồng bào Miền Bắc cũng không được ở yên trong cảnh khốn cùng.  Cuộc xâm lăng Miền Nam được khởi sự chuẩn bị.  Gọng kềm của chế độ xiết chặc hơn nữa.  Đã không bao giờ được ăn no, dân chúng từ đây còn phải thắt lưng buộc bụng, Cuộc chiến xâm lăng kéo dài mười lăm năm đã gây nhiều tổn phí không kể xiết về nhân mạng cũng như đã làm tiêu tan không kể hết được tài sản của dân và của nước. Hàng triệu người đã nằm xuống vì bom đạn, gươm đao, kẻ sinh Bắc tử Nam vùi thân trong rừng thẳm, ngưởi hy sinh chiến đấu  chống xâm lăng bảo vệ Miền Nam tự do, dân chủ.  Tại Miền Bắc, dân phải răm rắp tuân lệnh Đảng và nhà Nước, và không có một biến động nào đáng kể, ngay cả cái chết của ông Hồ chí Minh đầu tháng chín 1969 cũng không gây nên xáo trộn đáng kể trong hàng ngủ lãnh đạo.  Ngược lại, từ khi đất nước bị phân chia năm 1954, Miền Nam phải trải qua nhiều biến động nội bộ nghiêm trọng, có lúc gần tan rã, trở thành một con mồi dể dàng cho cộng sản xâm lược.  Hoa Kỳ phải đổ quân vào để cứu vãn tình hình như chúng ta đã biết.  Biến động đáng kể đầu tiên là mưu toan phản loạn của tướng Nguyễn văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng quân đội  quốc gia muốn lật đổ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm , hai tháng sau khi ông Diệm  về nước lập chính phủ do sắc lệnh của Quốc Trưởng Bảo Đại bổ nhiệm ông làm Thủ Tướng với toàn quyền chính trị, hành chính và quân sự. Dân Tây, vợ Đầm, sĩ quan của quân đội Pháp « biệt phái » qua chỉ huy quân đội quốc gia từ khi mới thành lập, ông Hinh không chịu khép mình trong kỷ luật quân đội và kỷ luật quốc gia để phải làm việc dưới quyền của một ông Thủ Tướng không kiêng nể ông như các Thủ Tướng khác trước đấy, chưa kể ông Diệm vẫn luôn luôn ra mặt chống Tây thực dân từ khi ông Diệm còn làm Thượng Thư trong triều đình Huế thời Pháp thuộc. Thất bại, tướng Hinh được Quốc Trưởng Bảo Đại gọi sang Pháp và ở luôn tại Pháp sau một mưu toan trở về dấy loạn lần thứ  hai nhưng thất bại ngay ở biên giới.  Biến cố thứ hai cũng lại là một mưu toan lật đổ ông Diệm nhưng lần này ông đã là Tổng Thống nền đệ nhất Cộng Hòa.  Cuộc đảo chính hụt này, ngày 11 tháng 11, 1960, lại đưa một số sĩ quan đi tù hay đi ngoại quốc cùng với vài chính trị gia dính líu đến nội vu.  Nhưng tục ngữ Pháp có câu  «có hai thì phải có ba »  (jamais deux sans trois) nên lần này, cuộc đảo chính thành công với sự nhúng tay của chính phủ Mỹ thời Tổng Thống Kennedy và với sự thực hiện của một số tay sai người Việt.  Ngày 2 tháng 11, 1963, Tổng Thống Diệm cùng bào đệ, ông Ngô Đình Nhu, Cố Vấn chính trị, bị hạ sát.  Hai tuần sau, tại thành phố Dallas, Hoa Kỳ,Tổng Thống Kennedy bị ám sát.  Giai đoạn Ngô Đình Diệm chấm dứt.  Miền Nam suýt rơi vào vực thẳm.  Việt Cọng nổi lên dánh phá nhiều nơi.  Hệ thống ấp chiến lược bị phá bỏ bởi chính quyền mới của Hội Đồng quân nhân cách mạng.Nhiều sĩ quan và công chức chống cọng tích cực dưới chính quyền cũ bị bắt bớ giam cầm.  Nhiều cán bộ cộng sản quan trọng đang bị giam giữ được thả ra vô điều kiện một cách mờ ám.  Nhiều vụ tống tiền và chiếm đoạt tài sản xảy ra ở nhiều nơi mà nạn nhân bị chụp mủ «làm kinh tài cho gia đình họ Ngô».  Trước tình trạng suy đồi lanh chóng của Miền Nam và một số tin tức về sự móc nối của vài tướng lãnh trong HĐQNCM với một tổ chức hoạt động cho  lá bài trung lập, cũng đại sú Lodge bật đèn xanh cho một nhóm quân nhân khác làm một cuộc đảo chính lật đổ nhóm quân nhân «cách mạng 1 tháng 11 » trước.  Cuộc đảo chính chớp nhoáng này được thực hiện trong vòng hai tiếng đồng hồ vào sáng ngày 30 tháng 1, 1964, vỏn vẹn ba tháng sau vụ binh biến lật đổ nền Đệ nhất Cộng hòa. Ba năm tiếp theo, Miền Nam sống trong một tình trạng gần như hổn loạn Trong lúc các chiến sĩ quốc gia đổ máu hy sinh trên các chiến trường lan rộng khắp nơi  thì tại thủ đô Sài gòn, một nhóm tướng tá tranh dành miếng đỉnh chung, hết đảo chính đến chỉnh lý, biểu dương lực lượng, thanh toán nhau, bắt bớ nhau, phong chức cho nhau, chia chác quyền lợi và quyền hành với nhau trên cái thân thể càng ngày càng suy nhược héo mòn của đất nước đang bốn bề thọ địch. Vì vậy mà Hoa Kỳ phải mang gấp quân sang để cứu vãn tình thế. Từ khoảng mười ngàn với tư cách cố vấn dưới thời Tổng Thống Diệm, quân số Mỹ càng ngày càng tăng cho đến hơn nửa triệu quân vứa tác chiến,vừa cố vấn, vừa tiếp liệu. Số thương vong tổng cọng gần sáu mươi ngàn người.  Chính nghĩa của cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam càng dễ bị hiểu lầm và xuyên tạc.  Phong trào phản chiến càng phát triển mạnh đặc biệt ở Hoa Kỳ khiến cho chính phủ và quốc hội phải nhượng bộ trước áp lực của phong trào.  Cuối cùng, với chính sách đánh cầm chừng, tự chế , không đánh cho địch ngã gục mà chỉ để mong địch đến bàn hội nghị, Hoa Kỳ chỉ còn một mục tiêu chính: rút quân về nước, đem được hết tù binh về, quân nhân Mỹ mất tích sẽ từ từ tìm kiếm sau.  Trong tinh thần bằng mọi giá phải chấm dứt sự có măt của quân đội mình ở Việt Nam, Hoa Kỳ xúc tiến Việt nam hoá chiến tranh để Miền Nam tự lo lấy số phận của mình.  Dưới thời Đệ nhị Cộng Hòa, tuy tình hình nội bộ được ổn định nhưng cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam càng ngày càng khó khăn trước sự gia tăng không giới hạn của lực lượng địch được cả Khối Cộng sản quốc tế yểm trợ tối đa và sự suy yếu của lực lượng quốc gia vì Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ quân sự đến mức không đủ nhiên liệu, đạn dược, vũ khí để thay thế và các quân cụ khác.  Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được ký kết trong hoàn cảnh này. Chính phủ VNCH buôc phải ký nếu không thí bị Hoa Kỳ bỏ rơi tức khắc Một hiệp định gián tiếp mở đường cho cộng sản Bắc Việt xâm lăng Miền Nam vì không buộc CSBV rút về Bắc hơn một trăm ngàn quân của chúng đã đột nhập vào Nam. Đúng như vậy, sau khi ký kết, CSBV tấn công khắp nơi xem hiệp định đình chiến Paris như không có, bao nhiêu quân ở Miền Bắc lục tục kéo vào Nam. Những lời khẩn thiết của chính phủ VNCH kêu gọi Hoa Kỳ giữ lời hứa của Tổng Thống Nixon can thiệp nếu CSBV vi phạm hiệp định Paris, đều rơi vào khoảng không. Quốc hội Hoa Kỳ mà đảng Dân Chủ nắm đa số đã ngăn cấm không cho phép Tổng Thống can thiệp bằng quân lực ở nước ngoài và tệ hại nếu không phải là tàn nhẫn hơn nữa, không cho phép tháo khoán số tiền mấy trăm triệu còn lại trong ngân khoản viện trợ quân sự để cho VNCH mua sắm thêm phương tiện chiến đấu trong những trận chiến ác liệt đang diễn ra vào những tháng quyết định đầu năm 1975.
 Những Bài Học: 
Hai thập niên đầy biến động từ 1954 đến 1975 không thể không để lại nhiều bài học cho chúng ta, cho hậu  thế, cho bây giờ đây.
Những Người Quốc Gia: Bài học đầu tiên của giai đoạn lịch sử này nên được để dành cho những người Việt quốc gia chúng ta vì trách nhiệm bảo vệ Miền Nam trước đây trước hết là trách nhiệm của chúng ta, người ít kẻ nhiều với những điều kiện của mổi người lúc bấy giờ.    
-quyền lợi của đất nước phải được đặt trên quyền lợi riêng của mổi người, mổi tập thể. Nói thì dễ nhưng nhiều cá nhân, nhiều tập thể không áp dụng bổn phận  căn bản này của người công dân. Chúng ta phải nhìn nhận rằng nếu chúng ta có trước đây những vị lãnh đạo đặt quyền lợi của quốc gia trên tất cả thì Miền Nam chúng ta cũng không thiếu những người có chức quyền xem thường quyền lợi của quốc gia mà chỉ biết đến  quyền lợi của cá nhân mình.   
- dân chúng phải chọn những người lãnh đạo và những người đại diện cho mình không những có khả năng mà còn phải có đạo đúc, tư cách ; phải nhìn vào quá khứ để tìm hiểu chứ đừng nghe lời đường mật hứa hẹn hão huyền. Một sự lựa chọn sai lầm sẽ rất tai hại lâu dài cho cộng đồng, cho quốc gia.  
- chúng ta phải tự trang bị tinh thần tự lập, tự cường, phải rửa sạch tinh thần vọng ngọai và ỷ lại. Có một nước bạn giúp đở chúng ta là một điều tốt, nhiều lúc còn cần thiết nữa nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng không ai thương chúng ta, lo cho chúng ta bằng chính chúng ta. Nước nào cũng có quyền lợi riêng của nước ấy. Nếu quyền lợi của nước bạn một lúc nào đấy không phù hợp hay ngược lại với quyền lợi của đất nước chúng ta thì chúng ta phải trả giá đắt sự ỷ lại thiếu sáng suốt của chúng ta.   
- trong thời đại bây giờ, trừ vài nước Phi châu còn lạc hậu, không một ai quan niệm được rằng nền dân chủ của một quốc gia có thể bị hủy hoại vì một biến động quân sự của một nhóm quân nhân. Nguyên tắc cơ bản của tất cả các nước văn minh từ hơn cả thế kỷ hay vài thế kỷ nay là sự phụ thuộc của thẩm quyền quân sự vào chính quyền dân sự (principe de subordination de l’autorité militaire au pouvoir civil) vì chính quyền dân sự đại diện cho toàn dân, thể hiện chủ quyền của toàn dân (souveraineté du peuple).
 Hoa Kỳ: Hoa Kỳ  và đặc biệt đảng Dân Chủ cần phải hiểu và chúng ta phải kiên nhẫn làm cho họ hiểu rằng khả năng vô địch của họ về quân sự, khoa học, kỹ thuật, tiềm lực kinh tế dồi dào của họ, tất cả không miễn trừ cho họ những nỗ lực học hỏi cần thiết để thấu hiểu những giá trị, những khát vọng, những nhu cầu, những điều kiện đặc thù của mổi dân tộc trong mổi giai đoạn của lịch sử của dân tộc ấy, biến chuyển không ngừng theo sự chuyển biến của thế giới.  Trong sự thi hành sứ mạng mà Hoa Kỳ tự nhận hổ trợ cho các dân tộc tranh đấu cho tự do, dân chủ của họ qua lời tuyên bố công khai và long trọng trước thế giới gần đây của Tổng Thống Georges W. Bush, siêu cường này không thể phạm phải những sai lầm về nhận định, về thiết kế chính sách đối ngoại, về sự phân biệt  giữa những đối tượng, thù hay bạn của tự do, dân chủ, của nhân quyền, của sự tiến bộ của nhân loại.  Hoa Kỳ không thể hành sử như một quốc gia tầm thường chỉ tính toán cho những quyền lợi trước mắt và ngắn hạn nhiều lúc chưa chắc đã có thực để quên đi sứ mạng cao cả của mình với nhân loại.  Những sai lầm của Hoa Kỳ trong những quyết định của họ trong nửa thế kỷ nay, đặc biệt ở Trung Hoa năm 1949 và ở Việt Nam năm 1963 và 1975 đã làm cho bàn cờ thế giới thay đổi một cách tai hại và dài hạn, đặt gần một tỷ rưởi người trong cảnh nghèo khổ và mất tự do dưới sự thống trị của một thiểu số « tư bản đỏ » dẫm lên trên nhân quyền và nhân vị của con người., và đặt các nước trong vùng Á Châu Thái Bình Dương trong tình trạng lo ngại và cảnh giác thường xuyên trước chế độ cộng sản ở Trung Hoa lục địa, hung hản, bá quyền, đe dọa nền an ninh và kinh tế của toàn vùng.    Tuy vậy, nhiều chánh khách, nhiều lý thuyết gia, kinh tế gia, nhà nghiên cứu chính trị chiến lược, đủ cỡ đồng thanh tranh nhau ca ngợi hai chế độ cộng sản môn đệ của bạo chúa Staline nói trên bằng cách tuyên dương những thành quả của hai chế dộ này, so với…tình trạng của hai quốc gia này trong thời gian đen tối nhát mà hai chế độ đã tạo nên cách đây ba bốn-mươi năm hơn, khi nhân dân hai nước gần chết khổ tất cả vì bị đem ra làm con vật thí nghiệm cho các chánh sách xã hội chủ nghĩa thuần túy nhất.. Nghĩa là so sánh cái tệ hại nhất của các chế độ này gây nên với cái ít tệ  hại hơn bây giờ, thay vì so sánh với các «con rồng vàng»  kế cận  đã vươn lên như những con rồng trong thần thoại từ hơn hai mươi năm nay!  Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu cũng đừng quên rằng 90 phần trăm dân ở Trung Hoa lục địa và ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa giờ đây đang sống xa hẳn dưới mức nghèo khổ nghĩa là không đến một đô la một ngày vì  lợi nhuận trung bình từ 400 đến gần 700 đã bị thiểu số 10 phần trăm có lợi nhuận cao chia lấy phần lớn.  Quảng đại quần chúng này phải có quyền sống đủ no, đủ ấm, đủ tự do, nhân phẩm được tôn trọng như tất cả mọi người khác trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay.  Thế giới Tây phương nói chung, Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu nói riêng cần nhìn xuyên qua cái hình thức phô diễn bề ngoài mỏng manh và phải lắng nghe tiếng kêu gọi xuất phát từ bên trong sâu thẳm của hơn cả tỷ người cần được giải thoát và được hoàn trả lại các dân quyền và nhân quyền của họ mà không một đảng nào, một nhà Nước nào có quyền tước đoạt mãi mãi.
Thêm Một Bài Học Cho Những Người Cộng Sản Việt Nam: Sau khi bá chủ được tất cả Miền Bắc năm 1954, lẽ đáng công sản phải ngưng nghỉ cho dân hưởng thái bình, xây dựng lại những đổ vỡ của chiến tranh,phát triển kinh tế, nâng cao mức sống, chờ đợi môt ngày thuận tiện hai Miền Nam Bắc nói chuyện với nhau tiến tới việc thống nhất đất nước trong hoà bình, tự do. Không làm như vậy, cộng sản Bắc Việt đã phát động cuộc chiến thứ hai, quyết xâm lăng Miền Nam, khống chế cà Đông Dương như chúng ta đã biết.  Thêm hai-mươi năm nội chiến để làm gì ? Để thống nhất đất nước ? Một ngụy biện không chấp nhận được vì, cần phải nhấn mạnh cho những người còn tin ở ngụy biện này, thống nhất chỉ là và phải là kết quả của một tiến trình thương thảo giữa hai Miền Nam Bắc, một công cuộc chính trị, một sự đồng thuận giữa hai bên trong những điều kiện không thiệt hại cho một bên nào để từ đấy thực hiện một công thức quản trị duy nhất cho quốc gia, một chính quyền chung cho cả nước. Không làm như vậy  mà dùng vũ lực, gây nên cả một cuộc chiến tranh thì hoàn toàn không phải là một sự thống nhất trong ý nghĩa đúng đắn của sự kiện lịch sử này mà chỉ là một cuộc xâm lăng trắng trợn.    Đảng cộng sản Việt Nam đang mang trên mình bản án nặng nề nhất của lịch sử. Họ phải rút ra từ tội lỗi lớn lao của họ một bài học cho chính họ để tạ tội với quốc dân thay vì tiếp tục chính sách dối trá lường gạt đồng bào trong và ngoài nước.    Từ bài học quá đắt giá này, tôi mong người cộng sản Việt Nam sẽ biết phục thiện để đi vào con đường chung của dân tộc. Họ cần hiểu rằng quyền hành họ đang nắm giữ chỉ là một quả bóng bay mà một cơn gió thoảng mùa hè có thể tách rời khỏi tay họ.
C- Từ Đổi Đời Đến Đổi Mới : 1975 – 1986 Và Tiếp Theo   
Từ Đổi Đời Đến Đổi Mới.
Trưa ba mươi tháng tư 1975, đoàn chiến xa của Hồng quân Nga Sô viện trợ cho cộng sản Bắc Việt tiến vào thủ đô Sài Gòn và chạy thẳng tới dinh Độc Lập tức phủ Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hoà. Thủ đô Miền Nam đã bỏ ngõ từ chiều hôm trước. Cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ vừa chấm dứt. Hoà bình trở lại trên một đất nước đuợc sự thương cảm của thế giới bởi những hy sinh không kể xiết của một dân tộc vừa thoát khỏi một cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ : ba- mươi năm.  Nhưng thế giới đã không nhìn xa hơn. Ít ai nhận thấy tai ương sắp xảy ra cho dân tộc Việt Nam bất hạnh này. Hầu hết đều muốn ra đi vì họ biết một cuộc đổi đời sắp xảy ra. Đúng vậy, bắt bớ, giam cầm, tù đày, cải tạo, cướp nhà, cướp của đồng loạt và liên tục xảy ra khắp nơi. Miền Nam đã vậy trong lúc dân chúng Miền Bắc thất vọng, bao nhiêu mong ước Miền Nam ra giải thoát cho họ bỗng chốc bốc thành mây khói !  Chỉ trong vòng vài tháng, nửa triệu người bị lùa vào các trại cải tạo, hơn một trăm ngàn người vào các nhà tù, hơn một triệu người « đi »  kinh tế mới, bỏ lại cho Đảng cho Nhà Nước nhà cửa, tài sản của mình.  Chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa tập trung các phương tiện sản xuất trong tay Nhà Nước, quốc hửu hóa tất cả các xí nghiệp tư doanh trước đây, triệt hạ thành phần « tư sản mại bản »… đã lanh chóng tê liệt hóa nền kinh tế vốn tương đối thịnh vượng của Miền Nam, đến mức mọi người phải ăn đói, bửa có bửa không !  Rõ ràng là một cuộc đổi đời đang được thực hiện.   Thế giới bên ngoài đã bắt đầu theo dõi tình hình bi thảm đang diễn ra tại Miền Nam Việt Nam cùng lúc với những vụ vượt biên, vượt bể, vượt cả đại dương của hàng trăm ngàn người mà một số lớn đã tử nạn dọc đường hay bị cướp biển hảm hại.  Lương tâm nhân loại bắt đầu xúc động.   Một số nhân vật Tây phương đã hết lời ca ngợi cuộc giải phóng Miền Nam, thống nhất nước Việt Nam, đã tỉnh ngộ, bắt đầu hối hận về sự lầm lạc của mình như nhà triết học Jean Paul Sartre.  Cuộc trắc nghiệm các chính sách mới của chế độ mới từ 1975 đã hoàn toàn thất bại.  Từ Mạc tư Khoa, Gorbatchek đã cho Hà Nội biết Nga Sô không thể tiếp tục viện trợ cho Việt Nam nữa. Tập đoàn lãnh đạo cộng sản  hiểu rằng đã đến lúc phải đoạn tuyệt với chủ nghĩa, giáo điều, tất cả, để thoát ra khỏi cái mồ chôn mà họ đã tự đào lên để tự chôn mình và chôn luôn cả dân tộc.  Đã đổi đời, bây giờ phải đổi mới!  Đại Hội Cộng đảng thứ sáu họp tháng 12,1986 quyết định từ bỏ kinh tế xã hội chủ nghĩa, áp dụng kinh tế thị trường, được ráp thêm cái đuôi « theo định hướng xã hội chủ nghĩa » để níu kéo lại một số đặc quyền của Nhà Nước, duy trì nhiều xí nghiệp quốc doanh và cũng để vớt vát thể diện bị tiêu hao nặng nề bởi sự trở cờ 180 độ. Chính sách đổi mới kéo theo những thay đổi trong các chánh sách áp dụng lân nay trong nông nghiệp, kỹ nghệ, thương mãi, hủy bỏ nhiều sự kiểm soát trong sự lưu thông, phân phối hàng hóa sản xuất, cho phép hưởng lợi cá nhân, phát triển các dịch vụ.  Những luật lệ đầu tiên về đầu tư dành cho người ngoại quốc được ban hành lôi cuốn nhiều doanh nhân các nước ngoài đổ tới nghiên cứu thị trường, khởi sự hoạt động. Việt kiều ở hải ngoại  bắt đầu về thăm quê hương, và càng ngày càng đông, đem về nhiều ngoại tệ.  Nhưng « đổi mới »  chỉ giới hạn trong lãnh vực thuần  túy kinh tế.  Chính trị vẫn như trước nghĩa là vẫn độc đảng, độc trị.  Và «đổi mớỉ» tạo nên những vấn đề mới trên phương diện xã hội. Mọi người chen chúc nhau, xô đẩy nhau để làm tiền, để kiếm sống, để làm giàu, bằng mọi cách, không còn phân biệt điều tốt, điều xấu. Một xã hội thả lỏng, các giá trị tinh thần, đạo lý, đạo đức không còn được ai nhắc nhở đến nữa.  Từ trên xuống dưới, từ cấp lãnh đạo cao nhất cho đến cán bộ thấp nhất, mọi người thi nhau làm tiền một cách trắng trợn.  Tệ nạn tham nhủng được hệ thống hóa, lan tràn khắp nơi, từ trung ưong đến địa phưong, trong chính quyền, trong quân đội, trong các công ty quốc doanh, ở bất cứ nơi nào có thể kiếm ra tiền.  Trong lúc nhờ tham nhủng, một giai cấp mới, tư bản đỏ và tư sản đỏ, được thành hình và phát triển lanh chóng thì đại đa số dân chúng ở ngoài vòng ảnh hưởng trực tiếp của « đổi mớỉ » hoặc ở nông thôn xa xôi không tiếp cận với các đô thị, các thành phố, tiếp tục nghèo khổ, một số ít được khá hơn phần nào nhưng số đông không có gì thay đổi, chưa kể nhiều gia đình khốn đốn hơn phải bán con, phải để mẹ hay vợ ra đi lao động ở nước ngoài để chồng con ở lại quê nhà.  Tỷ lệ trẻ con suy dinh dưỡng đạt mức báo động, số trẻ em bỏ học đạt mức đáng lo ngại.  Chưa bao giờ có trong lịch sử một cảnh tương phản xã hội khiêu khích như vậy giữa những nhà giàu hàng chục, hàng trăm triệu Mỹ kim xây dựng tài sản một cách bất chính và những gia đình không kiếm được cái ăn hằng ngày vì không kiếm được việc làm, không được ai giúp đở kể cả Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Những Bài Học Cho Ai ?
Từ đổi đời đến đổi mới, giai đoạn cuối cùng của lịch sử cận đại, chúng ta có thể rút ra vài bài học cụ thể tiếp giáp ngay với hiện tại trước mắt. 
Những người cộng sản trong nước: họ đã tạo nên một cuộc đổi đời, tưởng thực hiện được giấc mơ xã hội chủ nghĩa : một thiên đường ở trần gian. Mười năm sau, họ đã vở mộng. Lãnh đạo một nước không phải là lãnh đạo một cuộc chiến tranh. Xây dựng và kiến tạo không cùng một lãnh vực với xử dụng vũ lực. Một chủ thuyết kinh tế dựa trên sự phủ nhận và bãi bỏ động lực thu lợi cá nhân  không thể nào ứng dụng thành công được vì trái với tâm lý tự nhiên của con người luôn luôn muốn làm ra tiền để cải tiến đời sống của mình., một nhu cầu thường xuyên của bất cứ ai. Từ chủ thuyết trên, cộng sản chủ trương làm chung, ăn chung, nghĩa là tập trung các phương tiện sản xuất trong tay tập thể, trong tay Nhà Nước, khiến cho không ai chịu trách nhiệm rõ rệt về thành quả của hoạt động mà ngược lại, ai cũng muốn dành một phần lớn cho mình. Mặt khác, mất quyền sở hửu phương tiện sản xuất của mình, làm việc mà không hưởng được kết quả trọn vẹn của công sức mình, chắc chắn không ai làm việc hết mình. Năng xuất thấp, hiệu quả kém là chuyện không tránh được. Số phận của các xí nghiệp Nhà Nước vì vậy đã được an bài .  Với kinh nghiệm đắt giá của nền kinh tế xã hội mác-xít, cộng sản đã ôm chầm lấy kinh tế thị trường nhưng, như đã kể, còn ráp thêm cái đuôi tai hại « theo định hướng xã hội chủ nghĩa », làm hỏng phần lớn hiệu quả của chính sách cứu rỗi này. Tóm lại, cần phải cắt gấp cái đuôi tai hại ấy để loại bỏ những ảnh hưởng xấu của nó.  Ngoài ra, phải đổi mới chính trị nghĩa là phải thực hiện tiến trình dân chủ hóa , trả lại cho dân các dân quyền và nhân quyền mà không một quyền lực nào có thể tước đọat mãi mãi đươc. Phải thành hình một Nhà Nước pháp trị, thượng tôn luật pháp, một hệ thống luật pháp đúng với những tiêu chuẩn của luật pháp văn minh hiện hành trong thế giới chứ không phải một mớ luật lệ, nghị quyết, pháp lệnh phản dân chủ, phản nhân quyền, thủ tiêu các quyền tự do căn bản.  Đây là bài học tối quan trọng mà các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải rút tỉa từ kinh nghiệm hai-mươi năm qua để áp dụng bây giờ vì lợi ích của quốc gia. dân tộc.
Đồng Bào Trong Nước:  Nạn nhân của cuộc đổi đời, đồng bào trong nước đã thoát chết đói nhờ những người bạn củ trở lại kịp thời. Chính sách kinh tế thị trường đã mở đường cho những nhà kinh doanh Âu Á Mỹ Úc lần lần trở lại làm ăn và dọn đường cho đồng bào ở hải ngoại về thăm quê hương đất nước.  Thoát chết đói nhưng chưa phải là sống đủ no, đủ ấm, đủ tự do cho tất cả mọi người từ thôn quê đến thành thị. Dân tộc Việt Nam phải được quyền sống  xứng đáng như các dân tộc khác trên thế giới văn minh tiến bộ ngày này.Sự chịu đựng nhẫn nhục chỉ có tác dụng khuyến khích lòng tham quyền cố vị và kéo dài vô hạn định chế độ độc tài đảng trị. Đồng bào phải đứng lên đòi hỏi đảng cộng sản trả lại các quyền tự do, dân chủ cho đồng bào.   Dân tộc ta luôn luôn tôn trọng các tín ngưỡng, tôn thờ Thượng Đế, cầu Trời như đấng chí linh, khấn Phật như đấng siêu phàm, tôn kính tổ tiên, ông bà, tạo nên những truyền thống tốt đẹp mà chúng ta có bổn phận gìn giữ và bảo vệ bằng mọi giá. Luật pháp  của chế độ cộng sản vô thần duy vật và con đẻ cuối cùng của nền luật pháp rừng rú ấy, Pháp lệnh về tôn giáo, phải được hủy bỏ. Nơi cửa Phật, nơi Thánh đường, nơi Thánh thất, không ai có quyền xâm phạm, kiểm soát, rình mò, phong tỏa. Việc truyền đạo và hành đạo là một hành động tự do của mọi người, nhà tu hành, giáo sĩ các tôn giáo, người thường dân, bất cứ ai, có thể thực hiện bất cứ nơi nào bởi không có một lý do nào để hạn chế.  Tài sản của các giáo hội đã có từ xưa phải được hoàn trả lại vô điều kiện,các sự thất thoát hư hỏng phải được đền bù vì một Nhà Nước, một chính quyền bình thường không thể cướp đoạt tài sản của dân, của một tập thể, nhất lại là một tập thể tôn giáo mà đặc tính tuyệt đối là vô vụ lợi và có lợi ích công cọng như  cả thế giới đã công nhận từ nhiều thế kỷ.  Đồng bào phải muôn người như một đòi hỏi, nếu cần thì mạnh dạn tranh đấu, cho tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoàn toàn như vừa trình bày. Và cũng như đã trình bày, đây là cả một vấn đề bao trùm những truyền thống quý báu và tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam chúng ta, không phân biệt lương giáo, không phân biệt tín ngưỡng.  Mùa Xuân 2005 này, cuộc tranh đấu bất bạo động thứ ba trong Cộng đồng các quốc gia độc lập do Nga chủ trì  cũng đã thắng lợi nhanh chóng và quá dễ dàng. Dân chúng Kyrgzystan không đến vài ngàn người do đảng đối lập tổ chức để phản đối cuộc bầu cử gian lận đã kéo thêm được người hùa theo ủng hộ la lối,cảnh sát ngăn chận không cho họ kéo đến trụ sở quốc hội nhưng họ vẫn tiến tới. Không thể đẩy lui đoàn người biểu tình và không muốn xử dụng vũ khí, lực lượng cảnh sát đành để cho dân chúng chiếm quốc hội và cứ thế, đoàn người hồ hởi này kéo đến phủ Thủ Tướng, dinh Tổng Thống. Không có một sự kháng cự nào cả của cảnh sát và quân đội, Tổng Thống đã lanh chân qua nước ban trốn luôn. Hai vụ tranh đấu trước của dân Ukraine và Georgia, gọi là cách mạng da cam và cách mạng hoa hồng cũng  diễn ra gần giống vậy, người dự biểu tình đông hơn và thời gian tranh đấu dài hơn nhưng trong cả ba vụ vừa kể, không có đổ máu, kết quả tốt đẹp.  Tại sao ở Việt Nam lại không thể xảy ra như vậy ? Sự sợ hãi không còn lý do tồn tại nữa vì, rất giản dị, không anh cảnh sát nào, không anh lính nào dại dột xả súng bắn vào dân để, hoặc bị dân nổi giận tràn đến trả thù ngay toi mạng, hoặc mang tội giết người nếu cuộc nổi dậy thành công.  Thế giới ngày nay không như thế giới mấy chục năm trước.  Không sợ hãi, nhất định thành công.
 Đồng Bào Hải Ngoại: Để tránh một cuộc đổi đời, chúng ta đã phải rời quê hương đi tìm một chân trời tự do. Do cuộc đổi mới, thế cùng lực kiệt, cộng sản Việt Nam đã tự động thay đổi qui chế của chúng ta, từ thù địch bỏ nước ra đi thành khúc ruột ngàn dặm Nghị quyết số 36 của cộng sản hàm chứa một sự biến chuyển tư tưởng tương tự, không hơn, không kém, một sự dối trá tuyệt đối khỏi cần bỏ công  phân tách mổ xẻ.  Về thăm quê hương, thăm cha mẹ già đang mỏi mắt chờ con, không phải là những chuyện đáng trách nhưng nhất định đừng để cho cộng sản xử dụng như những con tin. Ngược lại, một người về thăm quê phải mang theo một thông điệp đầy đủ ý nghĩa của thế giới bên ngoài và của chính cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Thông điệp ấy là đã đến lúc đồng bào chuẩn bị đứng lên đòi hỏi dân chủ, tự do, no ấm.  Đồng bào ở bốn phương trời, thế giới khắp nơi sẽ tiếp tay ủng hộ cuộc tranh đấu của đồng bào quốc nội.  Ngọn sóng thần dân chủ, tự do đang lần lượt lôi cuốn những bức màn sắt rét rỉ còn sót lại.

II- NHỮNG TRIỂN VỌNG CỦA TƯƠNG LAI
A- Việt Nam Trong Chính Sách Đối Ngoại Của Hoa Kỳ
Nhiều đồng bào chúng ta ở trong nước cũng như ơ hải ngoại, ngay tại Hoa Kỳ, suy đoán tương lai của quê hương qua nhận thức của mình về thái độ của Hoa Kỳ đối với Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phương pháp suy đoán này không hẳn là không đúng vì một cách tổng quát, ảnh hưởng của Hoa Kỳ đối với những chuyển biến lớn trên thế giới khá rõ rệt. Nhưng không phải là Hoa Kỳ muốn gì cũng được. Và truớc hết cần phải tìm hiểu thực sự Hoa Kỳ muốn gì ở Việt Nam trong nhiệm kỳ hai của Tổng Thống Georges W. Bush.  Như chúng ta đã biết, nhà lãnh đạo Hoa Kỳ có tuyên bố ít lâu sau khi được tái cử là ông sẽ hổ trợ cho các dân tộc đứng lên tranh đấu cho tự do dân chủ của nước họ. Một lời tuyên bố có tính cách chung, không ám chỉ một nước nào nhưng chắc chắn đã làm cho nhiều nước e ngại dù chưa đến nổi lo ngại.  Về vấn đề Việt Nam, ngày 21 tháng 3 vừa qua, Đại sứ Mỹ ở Hà Nội, Michael W. Marine, tiếp xúc với cộng đồng người Việt tại San Francisco,. Mục đích, theo tôi nghĩ, vưà là để chuẩn bị cho cuộc viếng thăm trong vài tháng tới của Phan văn Khải, Thủ Tướng của cộng sản Bắc Việt nhưng quan trọng hơn, vừa gián tiếp cho chúng ta biết những nét chính của chính sách của chính phủ  Bush hiện thời.Một sự chuẩn bị như vậy, nói chung, trong cách thức làm việc của bộ ngoại giao các nước không có gì lấy làm lạ. Đối với nội vụ ở San Francisco, bộ Ngoai Giao Hoa Kỳ phải lo hơn nữa vì Khải muốn đến thăm toà Tổng lãnh sự của chế độ Hà Nội tại đây. Và ai cũng biết tại đây cũng như ở Vùng Vịnh (Bay area) bao quanh, cũng như ở quận Cam (Orange county) ở Nam California, nơi có người Việt đông nhất ở hải ngoại, nhiều thành phố không tiếp các « nhân vật » của cộng sản Việt Nam và cờ vàng ba sọc đỏ của quốc gia Việt Nam vẫn phất phới bay.  Bộ Ngoại Giao dưới thời Colin Powell đã bực mình về chuyện này nhưng không làm gì được bởi tính cách tự trị nội bộ của các thành phố dựa trên nguyên tắc phân quyền rộng rãi của Liên bang Hoa Kỳ. Những rục rịch chuẩn bị  của đại sứ Mỹ làm cho nhiều đồng bào ta nghĩ rằng ông Bush đã thiên về phía cộng sản Hà Nội.  Sự lo ngại này có phần đúng trong lúc này, không phải vì ông Bush thiên về bên nào nhưng vì ông và chính phủ của ông làm việc theo một chương trình hành động trong đó, bên cạnh những vấn đề ưu tiên của Hoa Kỳ (bình định và tái thiết Irak, chống khủng bố trên nội địa Hoa Kỳ và trên toàn cầu, thực hiện lộ trình hoà bình ỏ Trung Cận Đông, ngăn chận chương trình chế tạo vũ khí nguyên tử của Iran, của Bắc Hàn, đẩy mạnh công cuộc củng cố chính quyền dân cử Afganistan và tái thiết nước này, vụ rút quân của Syrie khỏi Liban v.v.) còn có những vấn đề chiến lược từng vùng (Thái bình Dương, Âu Châu, Trung Cận Đông) hoặc toàn cầu, và cố nhiên trên tất cả, là các vấn đề thiết yếu nội bộ của siêu cường này như năng lượng, an sinh xã hội, thâm thủng ngân sách, thiếu thăng bằng gia tăng của cán cân ngoại thương, tỉ lệ khiếm dụng,nạn chuyển dịch xí nghiệp ra ngoại quốc, tỉ lệ tăng trưởng, tỉ lệ gia tăng vật giá v.v.  Trong những vấn đề chiến lược từng vùng của thế giới, nổi bật đặc biệt trong những ngày gần đây là vấn đề Trung quốc, một vấn đề đã được đặt ra từ hơn nửa thế kỷ nay như đã ghi trên chứ không phải mới mẻ gì nhưng thái độ hung hăng của Bắc Kinh đối với Đài Loan vừa rồi tiếp theo những vụ dành đất, tranh dành các đảo ở biển Nam hải,dành hải phận ở Vịnh Bắc Việt, bắn chết ngư phủ Việt Nam  làm cho tình hình trong vùng căng thẳng phần nào và đòi hỏi Hoa Kỳ biểu lộ thái độ một cách rõ rệt hơn. Hà Nội chỉ mong có vậy cũng như nhièu quốc gia ở Đông Á , nơi mà an ninh và hoà bình khó bảo đảm được nếu Hoa Kỳ đứng ngoài cuộc trong lúc hai chế độ cộng sãn Trung Hoa và Bắc Hàn đang còn ngự trị trên hai quốc gia này.  Từ 1950, một số đầu óc ở Mỹ đã nghĩ đến việc biến ông Hồ Chí Minh thành một Tito ở Á Châu nhưng mọi người đã biết, ông Hồ không bao giờ là Tito mà ngược lại đã nhuộm đỏ cả Đông Dương, thi hành đúng chủ trương bành trướng của quan thầy Staline.. Giờ đây, Hoa Kỳ lại muốn dùng cộng sản Bắc Việt đóng vai trò của Tito một lần nữa, có lẽ vì không có ai khác để làm cái đê ở biên giới phiá Nam của Trung Hoa.   Chúng ta phải công nhận và cầu mong Hoa Kỳ thực hiện được và tốt chiến lược bao vây (stratégie d’endiguement) đắp đê phòng lũ lụt này vì quyền lợi tối thượng của nước ta, một quyền lợi vượt lên trên tất cả những quyền lợi khác chừng nào nước láng giềng vĩ đại của chúng ta chưa được quản trị bởi một chế độ dân chủ, sống hoà điệu với cộng đồng thế giới.  Vấn đề thực sự đặt ra cho chúng ta là làm sao chứng tỏ cho Hoa Kỳ hiểu rằng những người Việt không cộng sản, những người Việt yêu chuộng tự do, dân chủ, hiện ở trong nước hay ở ngoài nước, có đầy đủ khả năng, có đầy đủ quyết tâm , có đầy đủ lương tâm và đạo đức, có nhiều hơn tầng lớp lãnh đạo cộng sản hiện thời, tất cả những điều kiện cần thiết để xây dựng một vận hội mới dân chủ, tự do, hoà bình, tiến bộ cho nước Việt Nam và từ đấy, góp phần tích cực và hửu hiệu vào công cuộc bảo vệ an ninh và hoà bình cho Đông Nam Á Châu và Thái Bình Dương.  Chúng ta phải cùng nhau cố gắng tạo nên một hính ảnh tốt đẹp của cộng đồng người Việt Nam để xóa bỏ một số định kiến không được tốt đẹp mà một phần dư luận ngoại quốc đang còn lưu giử từ trong dĩ vãng của chúng ta. Chúng ta phải tranh thủ không ngùng thiện cảm và lòng tin cậy của thế giới, điều kiện tiên quyết của sự hổ trợ dành cho cuộc tranh đấu cho dân chủ, tự do, cho dân quyền và nhân quyền của dân tộc Việt Nam. 
B- Những Triển Vọng
Trước hết chúng ta, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, cần phải ý thức một cách sâu sắc và rõ rệt rằng số phận của chúng ta, tương lai của đất nước chúng ta, của quê hương chúng ta, do chính chúng ta định đoạt. Sự hổ trợ của bạn bè năm châu bốn bể luôn luôn đến sau, để giúp đở và tiếp tay cho chúng ta chứ hoàn toàn không phải để thay thế chúng ta.    Một thái độ ỷ lại vào người ngoài, vào nước ngoài chỉ mang lại sự khinh rẻ và từ chối của chính những người mà chúng ta chờ đợi họ giúp đỡ.    Chúng ta cần mọi sự hổ trợ từ bên ngoài và chúng ta phải tỏ rõ xứng đáng với những sự hổ trợ ấy. Triển vọng xấu – Có nghĩa là tình trạng mà chúng ta đang chứng kiến ở quê nhà và tóm lược ở trên sẽ không thuyên  giảm và còn có thể tệ hại hơn nữa. Về chính trị, vẫn độc đảng, độc tài, độc trị. Dân quyền và nhân quyền tiếp tục bị tước đoạt. Nạn tham nhũng càng ngày càng tồi tệ hơn. Bất công xã hội, cách biệt giàu nghèo, sẽ không giảm bớt mà còn gia tăng. Việt Nam vẫn ngồi lì ở vị trí áp chót nghèo nhất thế giới.  Bức tranh đen tối này sẽ còn mãi nếu không xảy ra một sự thay đổi toàn diện, thể chế chính trị, cơ cấu công quyền, nhân sự lãnh đạo.  Chờ đợi sự thức tỉnh của những người lãnh đạo hiện thời để thực hiện một cuộc cải cách sâu rộng sẽ là một mơ ước hão huyền.  Đất nước sẽ tuột dần xuống vực thẳm.  Nếu đồng bào không đứng lên đòi hỏi dân chủ hóa chế độ, trả lại quyền dân cho dân.   
Triển Vọng Khá Mơ Hồ: một số người trông đợi ở thời gian. Lớp lãnh đạo lớn tuổi hiện thời sẽ qui  tiên. Lớp trẻ hay trung niên có tư tưởng rộng rải hơn và có nhiều cơ hội tiếp xúc với thế giới văn minh , có trình độ học vấn cao hơn, sẽ thay thế lớp lãnh đạo cũ và chế độ tự nó sẽ biến đổi. Lý luận này không phải là huyền ảo nhưng gần ba mươi năm nay, rồi hai mươi năm nay, rồi mười năm nay, lãnh đạo qui tiên thì có nhưng chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn ỳ ra đấy, tham nhũng, thối nát càng tiến mạnh, tiến nhanh!  Triển Vọng Sáng Sủa: Chúng ta đang có một triển vọng sáng sủa hơn bao giờ cả vì tình hình trong nước cũng như tình hình thế giới đều thuận lợi cho tiến trình dân chủ hóa Việt Nam.    Trong nước, thuận lợi vì trước hết, lòng dân đã chán nản ngoai trừ một thiểu số được hưởng đặc quyền, đặc lợi như đã trình bày. Những nhà trí thức, những cựu đảng viên cao cấp, những cựu tướng tá, nhiều nhà văn, nhà báo đến cả nông dân nhiều nơi, thị dân ở ngay Sài Gòn cũ cũng chỉ trích, đẳ kích Đảng, Nhà Nước không tiếc lời, thậm chí tấn công cảnh sát, công an, không còn sợ hải như trước nữa. Vụ cuối cùng,trong tuần vứa qua ngay tại đại lộ Trần Hưng Đạo, giữa Sài Gòn-Chợ Lớn, bốn trăm người qua đường đã tụ họp nhau đánh cảnh sát, đốt xe chỉ vì một vụ bắt phạt lưu thông không đáng kể, chẳng qua chỉ vì sự dồn nén uất hận lâu ngày.  Cảnh sát phải rút lui. Tại tỉnh Thái Bình, nông dân cũng nổi lên đánh lại lực lượng công an trong một vụ phản kháng vì bị cướp đoạt đất đai.  Vài vụ vừa kể chỉ để nói lên sự thay đổi từ tâm lý sợ hải phục tòng đến tâm lý đề kháng nhiều lúc dến bạo động. Và một khi dân chúng đã phẩn nộ tập họp thành đám đông và nhân viên công lực không giải tán được nữa thì lúc ấy chế độ không còn ai bảo vệ nữa.  Các vụ giải thể các chế độ cộng sản từ Nga Sô đến các nước chư hầu ở Đông Âu, các vụ gọi là cách mạng hoa hồng, da cam , hoa tulipe mới đây tại các Cộng Hoà sô viết của Nga Sô cũ đều đã diễn tiến như vậy.  Trước khi sụp đổ, Nga Sô, thành trì và mẫu quốc của Khối Cộng Sản quốc tế, hùng mạnh về quân sự tương đương với Hoa Kỳ, dày dặc một mạng lưới mật vụ, công an, cảnh sát bao trùm cả nước, đã tồn tại bảy-mươi-bốn năm và sản xuất ba thế hệ thanh niên quàng khăn đỏ, Nga Sô kiên cố và vĩ đại ấy mà Tây Âu khiếp sợ và Hoa Kỳ không dám thốt một lời cản ngăn khi Hồng quân tràn qua Hung-Gia-Lợi và Tiệp Khắc đè bẹp cuộc nổi dậy của hai dân tộc này, Nga Sô ấy đã tan biến trong khoảnh khắc khi dân chúng ở Moscou đứng lên đòi giải thể chế độ, khi họng súng của một chiến xa đi đầu thay vì nhả đạn vào đám đông, đã được cắm vào một cánh hoa hồng và những người lính tuổi hai mươi non trẻ đã ôm chầm những người phản kháng, nước mắt tự do tuôn rơi trên má.  Các chế độ chư hầu đều cùng một số phận và cùng một lộ trình tương tự ngoại trừ ở Roumanie có máu đổ vì lãnh tụ độc tài cưỡng lại lòng dân nên bị xét xử lanh chóng để một trang sử được lật qua.
Con đường đi tới tự do càng ngày càng mở rộng cho mọi dân tộc.  Chỉ cần đứng dậy lên đường !

LS. LÊ TRỌNG QUÁT